Bạn đang xem bài viết 32 Quẻ Quan Âm Linh Xăm được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Hartford-institute.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Thông tỏ đủ đường với 32 quẻ quan thế âm bồ tát
Xưa nay, tất cả mọi việc trong đời, thành hay bại đều không phải do 1 yếu tố con người quyết định mà phải hội tụ các yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
Đấy là lý do mà người dù giỏi đến đâu cũng không tránh khỏi 8 chữ Mưu sự tại nhân, Thành sự tại thiên.
Soi rọi dòng lịch sử, các việc lớn của các bậc chính nhân quân tử và các việc của thường dân đều lấy chữ tâm làm trọng, lấy phép thánh hiền để răn.
Vậy thực sự việc xin xăm quan âm bồ tát kinh quẻ hỏi việc đại sự thế nào và quẻ quan âm linh xăm phải có những điều gì hãy theo dõi bài viết sau để có những thông tin.
Nguồn gốc của quẻ quan âm linh xăm:
Thực ra việc xin xăm của người phương Đông đều được bắt nguồn từ Trung Quốc. Khoảng 2500 năm trước công nguyên, hoàng đế Hiên Viên đã gieo quẻ âm dương trước khi chiến đấu với thủ lĩnh Xi Vựu.
Và đối với quán thế âm bồ tát linh quẻ được gắn với câu chuyện sau:
Tương truyền rằng khi Đức Huyền Trang sang tây trúc thỉnh kinh. Khi qua núi Bồ Đà được gặp Đức Phật Quan Âm.
Đức Phật bảo với ngài rằng: Đường sang Tây Trúc nhiều yêu ma quỷ ám, gian nan hiểm trở, vì thấy ông là người kính tin nên Đức Phật ban cho ông 32 quẻ quan âm thế bồ bát là quẻ tối thượng linh sẽ thấy rõ những cát hung họ phác nhân tiền. Nếu nhận thấy việc gì hồ nghi phải trí thành thắp hương trúc đào để bói.
Xin xăm quẻ quan âm bồ tát được nhiều người lựa chọn trước khi quyết định việc đại sự
Cách gieo quẻ quan thế âm bồ tát:
Muốn xin xăm que quan âm bồ tát, trước tiên phải tắm gội sạch sẽ, quần áo ngay ngắn trang trọng.
Tiếp đến người xin cần đến bàn thờ Phật, đốt 3 cây nhanh, vái 3 cái, quỳ xuống, chắp tay và thành tâm độc bài kệ sau:
Nam mô Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu nạn, Đại Từ Đại Bi, Linh Cảm (Người xin cần niệm 7 lần) QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT MA-HA-TÁT.
” Nay, Đệ tử (tên họ)…; Pháp danh…; ở tại …; vì có việc…(kể tên rõ việc cần cầu). Cầu xin bồ tát hiển linh để cho đệ tử chiếm đặng một quẻ trong 32 quẻ, hầu biết hung kiết lẽ nào. “
Quẻ quan âm linh xăm được thể hiện trong đồng xu âm dương
*Tiếp đến lấy 5 đồng xu đưa qua đưa lại trên khói nhanh 2-3 lần; 2 bàn tay chụm 5 đồng xu xóc đều 4-5 lần, bỏ xuống từng đồng, bắt từ dưới dắp lên và làm như thế đủ 5 lần và xem thứ tự âm dương thế nào sắp lên làm như thế đủ 5 lần, tiếp đến xem thứ tự âm dương (bề chữ hoặc số kể là Dương, bề kia kể là Âm).
Cầu quan sẽ được lên ngôi báu Ứng thí, rồng mây gặp hội cao Thưa kiện biện tranh đều thuận lợi
Bệnh nhân khỏe mạnh khỏi lo rầy Cầu tài lợi tấn, mười phần chắc Người ở xa về, thật chẳng lâu Gả cưới kết hôn, loan phụng hiệp Bán buôn toại nguyện, lợi toàn thâu
Với quẻ quan âm linh xăm các bạn sẽ tự tin hơn khi quyết định bất cứ công việc gì.
Mời Quý Phật tử hoan hỷ ngắm nhìn hình ảnh những mẫu tượng Phật Quan Âm đẹp do cơ sở điêu khắc tượng Phật Trần Gia tôn tạo:
32 Quẻ Quan Âm Linh Xăm – Xin Xăm Quan Âm Bồ Tát Linh Quẻ Hỏi Việc !
Thông tỏ đủ đường với 32 quẻ quan thế âm bồ tát
Xưa nay, tất cả mọi việc trong đời, thành hay bại đều không phải do 1 yếu tố con người quyết định mà phải hội tụ các yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
Đấy là lý do mà người dù giỏi đến đâu cũng không tránh khỏi 8 chữ Mưu sự tại nhân, Thành sự tại thiên.
Soi rọi dòng lịch sử, các việc lớn của các bậc chính nhân quân tử và các việc của thường dân đều lấy chữ tâm làm trọng, lấy phép thánh hiền để răn.
Do vậy hiện nay rất nhiều người trước khi làm việc gì hay quyết định bất cứ việc gì đều xin xăm quẻ quan âm bồ tát.
Vậy thực sự việc xin xăm quan âm bồ tát kinh quẻ hỏi việc đại sự thế nào và quẻ quan âm linh xăm phải có những điều gì hãy theo dõi bài viết sau để có những thông tin.
I, Nguồn gốc của quẻ quan âm linh xăm:
Thực ra việc xin xăm của người phương Đông đều được bắt nguồn từ Trung Quốc. Khoảng 2500 năm trước công nguyên, hoàng đế Hiên Viên đã gieo quẻ âm dương trước khi chiến đấu với thủ lĩnh Xi Vựu.
Và đối với quán thế âm bồ tát linh quẻ được gắn với câu chuyện sau:
Tương truyền rằng khi Đức Huyền Trang sang tây trúc thỉnh kinh. Khi qua núi Bồ Đà được gặp Đức Phật Quan Âm.
Đức Phật bảo với ngài rằng: Đường sang Tây Trúc nhiều yêu ma quỷ ám, gian nan hiểm trở, vì thấy ông là người kính tin nên Đức Phật ban cho ông 32 quẻ quan âm thế bồ bát là quẻ tối thượng linh sẽ thấy rõ những cát hung họ phác nhân tiền. Nếu nhận thấy việc gì hồ nghi phải trí thành thắp hương trúc đào để bói.
Xin xăm quẻ quan âm bồ tát được nhiều người lựa chọn trước khi quyết định việc đại sự
Do vậy đến nay việc gieo quẻ quan âm bồ tát hay xinxam quan the am bo tat mang lại niềm tin cho mọi người trước khi quyết định một vấn đề lớn nào đó.
II, Cách gieo quẻ quan thế âm bồ tát:
Muốn xin xăm que quan âm bồ tát, trước tiên phải tắm gội sạch sẽ, quần áo ngay ngắn trang trọng.
Tiếp đến người xin cần đến bàn thờ Phật, đốt 3 cây nhanh, vái 3 cái, quỳ xuống, chắp tay và thành tâm độc bài kệ sau:
Lòng thành đệ tử chiếm linh xăm Cúi lạy VIÊN-THÔNG QUÁN-THẾ-ÂM Bồ Tát từ bi liền cảm ứng Chỉ tường hung kiết, độ trầm luân.
Nam mô Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu nạn, Đại Từ Đại Bi, Linh Cảm (Người xin cần niệm 7 lần) QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT MA-HA-TÁT.
Quẻ quan âm linh xăm được thể hiện trong đồng xu âm dương
Đọc xong và cắm nhang vào lưu và lạy 3 lạy . Sau đó quỳ xuống chắp tay vái như sau:
” Nay, Đệ tử (tên họ)…; Pháp danh…; ở tại …; vì có việc…(kể tên rõ việc cần cầu). Cầu xin bồ tát hiển linh để cho đệ tử chiếm đặng một quẻ trong 32 quẻ, hầu biết hung kiết lẽ nào. ”
*Tiếp đến lấy 5 đồng xu đưa qua đưa lại trên khói nhanh 2-3 lần; 2 bàn tay chụm 5 đồng xu xóc đều 4-5 lần, bỏ xuống từng đồng, bắt từ dưới dắp lên và làm như thế đủ 5 lần và xem thứ tự âm dương thế nào sắp lên làm như thế đủ 5 lần, tiếp đến xem thứ tự âm dương (bề chữ hoặc số kể là Dương, bề kia kể là Âm).
Căn cứ vào Bản tìm quẻ sau để bạn biết quẻ quan âm linh xăm của mình là ở số mấy.
Quẻ số 1 D D D D D
QUẺ TINH CHÂN (Thượng Thượng)
Thể phụng đem điềm tốt Kỳ lân xuống đế đô Hoạ trừ, phước lộc đến Hỉ khí tự nhiên vô
Cầu quan sẽ được lên ngôi báu Ứng thí, rồng mây gặp hội cao Thưa kiện biện tranh đều thuận lợi
Bệnh nhân khỏe mạnh khỏi lo rầy Cầu tài lợi tấn, mười phần chắc Người ở xa về, thật chẳng lâu Gả cưới kết hôn, loan phụng hiệp Bán buôn toại nguyện, lợi toàn thâu
Phật rằng quẻ ứng rõ ràng Cửa nhà vinh hiển, phước lộc trường Muốn cho hạnh phúc đặng thường thường Toàn tâm niệm Phật, theo đường Tây Phương
Quẻ số 2 D A A A A
QUẺ TÙNG CÁCH (Thượng Bình)
Việc xưa nên đổi mới Giờ đến hiệp cơ duyên Cá vượt long môn cấp Cốt phàm hoá Thánh Tiên
Cầu quan chỉ được vào ngôi nhỏ Tính việc ắt xong, da chờ ngờ Thưa kiện sẽ hoà, không tổn thất Bệnh nhân khoẻ mạnh, khỏi phòng Cầu tài thấy có tám phần được Xa xứ trở về, đặng tín thơ Gã cưới kết hôn, loan phụng hiệp Bán buôn đổi chác, lợi lần vô.
Phật bảo việc cũ đổi thay Nhân duyên hoà hiệp, việc nay mới thành Biết rằng thời vận kiết hanh Nhờ công tu niệm, phước sanh họa trừ.
Thành tâm hướng Phật sẽ mang đến những thuận lợi cho cuộc sống
Quẻ số 3 A D A A A
QUẺ KHÚC TRỰC( Hạ Bình )
Hành động tuỳ phương tiện Cầu mưu khá cậy người Gặp đặng ngày mầu kỷ việc làm sẽ được vui
Cầu quan may đặng thành ngôi thứ Tính việc sau rồi mới toại tâm Thưa kiện nên hoà, không tổn thất Bệnh nhơn thuyên giảm, khỏi nguy trầm Cầu tài chỉ được vào đa thiểu Người ở xứ xa khó kiếm tầm Gã cưới kết hôn cầm sắc hiệp Bán buôn đổi chác, lợi sanh lần
Phật rằng quẻ ứng cang nhu Muốn cho đặng việc cậy nhờ quới nhơn Khéo dùng phương tiện là hơn Chìu người quyền quới, kẻ thân mới thành
Quẻ số 4 A A D A A
SỐ 4: QUẺ NHUẬN HẠ (Trung Bình)
Thuyền trôi nơi biển cả Vào bờ đặng bửu châu Khá dùng làm việc lớn Nạn hết phước liền thâu
Sanh nhai tuỳ ý, lần thâu lợi Tính việc rồi sau sẽ đặng thành Thưa kiện ắt hoà, kết quả tốt Bệnh nhơn thuyên giảm, thấy bình an Cầu tài may có tám phần đến Tìm kẻ ở xa, gặp mối manh Gã cưới kết hôn, hoà hiệp bạn Bán buôn đổi chác, lợi quần sanh
Phật bảo may đặng hoạnh tài Phải đem bố thí, cứu nguy giải nàn Vận cùng nhờ chỗ làm doan Tội tiêu phước đến, mới an cửa nhà.
Quẻ số 5 A A A D A
QUẺ VIÊM THƯỢNG (Hạ Hạ)
Quẻ ứng về Nam hướng Nạn ách khổ muôn đường Việc quan sanh kiện cáo Trước mắt gặp tai ương
Ra đi xa xứ, điều may ít Tính việc lôi thôi, gặp hoạ tai Thưa kiện sau e phải thất lý Bệnh nhơn rán chửa kỹ đêm ngày Cầu tài vô ích, không hi vọng Người ở xứ xa, chẳng vãng lai Gã cưới kết hôn sau thất bại Bán buôn đổi chác lỗ thêm hoài
Phật rằng thời vận long đong Vì chưng thiếu phước, quả công kém nhiều Cầu trời khấn Phật MAI CHIỀU Tu nhân tích đức, mới yên cửa nhà.
Quẻ số 6 A A A A D
QUẺ GIÁ SẮC (Bình Bình)
Quân tử tuỳ duyên phận Chớ dùng thói tiểu nhân Mỗi việc tua dè dặt Phước lành giữ tánh chơn
Ra đi xứ lạ, nhiều lầm lạc Tính việc chi rồi cũng bất thành Thưa kiện rốt sau e chẳng lợi Bệnh nhơn trở chứng khó bình an Cầu tài vô ích, sanh hao tốn Ứng thí rồng mây hội lỡ-làn Gã cưới kết hôn duyên chẵng hiệp Nói năng chưa được toại lòng toan
Phật bảo an phận thủ thường Nhẩn tâm theo dõi con đường trượng phu Chôn thành, phước đức cần tu Như người gieo cấy, tới mùa gặt thâu.
Quẻ số 7 D D A A A
QUẺ TẤN CẦU (Thượng Thượng)
Nước trị, dân khương thới Cửa nhà lần vượng hưng Tiền của cầu thêm đặng Phước đến, khỏi gian truân
Cầu quan gặp vận, nên danh phận Tính việc toại tâm, đặng trọn thành Thưa kiện biện tranh, toàn đắc lý Bệnh nhơn thuyên giảm, chứng mau lành Cầu tài may tới mười phần lợi Thai nghén sanh con bực quý vinh Gã cưới kết hôn cầm sắc hiệp Cửa nhà vui ve, gặp an ninh
Phật rằng thời tời tới quang vinh Nhờ nơi phước đức tu hành dày công Bồ-đề thêm gắng vun trồng Cửa nhà hưng thạnh, cháu con sum vầy.
Quẻ số 8 D A D A A
QUẺ TẤN BẢO (Thượng Kiết)
Đức tốt nhờ trời hộ Khí lành đến cửa nhà Quới nhơn thường giúp sức Đắc phước, lạc âu ca
Cầu quan thăng tấn ngôi sang cả Việc tính toại tâm mđặng trọn thành Thưa kiện biện tranh sau thắng lý Bệnh nhơn thuyên giảm, chứng mau lành Cầu tài lợi đến, mười phần chắc Gã cưới kết hôn loan phụng thành Nhà cửa an ninh, phước lạc đến Bán buôn đổi chác, lợi càng sanh
Phật rằng nhà có đức lành Thỉ chung gắng giữ đạo nhà Một câu sáu chữ DI-ĐÀ chớ quên.
Quẻ số 9 D A A A D
QUẺ HOẶCH AN (Trung Kiết)
Tiết đông cây cối rũ Lá rụng chửa ra bông Lần lần xuân khí động Chậm chậm tược chồi sung
Thưa kiện giải hoà, kết quả tốt Bệnh nhơn thuyên giảm, đặng an khương Cầu tài gặp vận, lần hồi dễ Nhà cửa yên vui, gặp kiết tường Gã cưới kết hôn, duyên phối hiệp Đi xa, về tới chốn quê hương Bán buôn đổi chác gặp thời thế Lục giáp sanh trai, phước mạng trường
Phật bảo thời vận phục hưng Cửa nhà lần vượng, tai ương giải trừ Phước lành, đạo đức, gắng tu Công danh phú quý lần hồi toại tâm
Quẻ số 10 D A A D A
QUẺ TOẠI TÂM (Trung Kiết)
Tới thời, hoà khí nhuận Suy tàn, vận lại hưng Lai rai mưa thấm ướt Xuân sắc trổ lần lần
Cầu quan toại ý, vào ngôi thứ Việc tính ắt xong, đẹp chí mình Thưa kiện biện tranh hoà giải được Bệnh nhơn thuyên giảm, chứng mau lành Cầu tài lợi đến mười phần chắc Gã cưới kết hôn, loan phụng thành Nhà cửa bình an, không hoạn nạn Bán buôn đổi chác, lợi lần sanh
Phật rằng thời vận mở mang Tai qua nạn khỏi gặp đàng phước duyên Noi gìn đạo đức cố kiên Phật trời gia hộ, vui yên cửa nhà.
Quẻ số 11 A D D A D
QUẺ TAI TÁNG (Đại Kiết)
32 quẻ quan thế âm bồ tát giúp nhiều người thông tỏ trước khi quyết định
Tai qua, phước lộc đến Hỉ khí đắc trùng lai Việc may gặp trước mắt Vận thông đặng hoạnh tài
Cầu tài may tới, bảy phần lợi Thưa kiện biện tranh được giải hoà Việc tính ắt xong, có kết quả Bệnh nhân lành mạnh, khỏi lo xa Người đi xứ lạ mong về tới Gã cưới kết hôn hiệp một nhà Lục giáp sanh nam, con quý báu Bán buôn đổi chác, lợi nhiều ra
Phật rằng nạn khỏi tai qua Từ đây phước đến, cửa nhà an vui Căn xưa tua gắng vun bồi Quy y Tam-Bảo, trau giồi nơi tâm
Quẻ số 12 A D A D A
QUẺ THƯỢNG TẤN (Thượng Bình)
Vận thời đang tấn phát Trò khó đoạt khoa thi Quẻ này ai chiếm đặng Mọi việc tự tâm tuỳ
Cầu quan, ắt đặng lên ngôi chức Việc tính sau này sẽ toại tâm Thưa kiện biện tranh rồi đắc lý Bệnh nhơn thuyên giảm, khỏi cơn nguy Cầu tài đẹp ý, chín phần đặng Gã cưới kết hôn, hiệp sắc cầm Người ở xứ xa, về chốn cũ Ra đi gặp dịp, xứng mưu tầm
Phật rằng thời vận vượng hưng Hoa tiêu phước đến, nhờ chưng làm lành Đời nên vì có tu hành Công viên quả mãn, mới thành nghiệp gia.
Quẻ số 13 A D A A D
QUẺ ÁM MUỘI (Hạ Hung)
Dòm trăng nơi đáy giếng Thấy bóng, chớ không hình Của tiền nhiều thất bại Khéo giữ mới an ninh
Việc tính lôi thôi, không toại ý Ra đi bất bại, có gì nên Cầu tài vô ích, không hi vọng Luận kẻ đi xa, thật khó tìm Gã cưới kết hôn không phối hiệp Bán buôn đỏi chác, vốn tiêu liền Kiện thưa thất lý, thêm hao tốn Nhà cửa bình thường, chẳng thiệt yên
Phật bảo thời vận tối đen Của tiền thấy có, phút hoá không Việc lành cố gắng nơi lòng Tưởng Trời tin Phật, phước thông hoạ trừ.
Quẻ số 14 A A D D A
QUẺ AN TỊNH (Hạ Trung)
Nghĩ nhiều, không quyết định Lo tính việc chưa thành Nhẫn kiên thì đặng phước Giữa phận khỏi tai sanh
Công danh toan lập không vừa ý Việc tính còn nghi, chẳng đặng thành Thưa kiện giải hoà , không tổn thất Cầu tài bất lợi, chớ nên tranh Ra đi an ổn, không chi hại Gã cưới kết hôn, việc khó thành Nhà cửa bình an không khí tịnh Tìm người xa xứ, bặt tin lành
Phật rằng quẻ ứng tịnh an Việc chi toan tính, còn đang trệ trầm Nhẫn tâm, thủ phận an thân Đợi hồi bỉ cực, lần lần thới lai.
Quẻ số 15 A A D A D
QUẺ TRỞ TRIẾT (Hạ Hung)
Cây khô sương tuyết gặp Ghe nhỏ bị giông to Kính tâm, chỗ không vọng Trăm việc phải buồn lo
Các việc lo toan đều thất bại Ra đi có hại chẳng yên tâm Cầu tài rốt cuộc không thành tựu kẻ ở xứ xa thật khó tầm Thưa kiện lôi thôi, e thất lý Bán buôn đổi chác tổn hao thâm Kết hôn gã cưới đều ngăn trở Nhà cửa chẳng an, vẻ trệ trầm
Phật rằng vận chẳng hanh thông Có nhiều trở ngại buồn lòng chẳng an Nhẫn tâm niệm Phật chớ than Thường làm phước đức mọi đàng vẹn xong
Quẻ số 16 A A A D D
QUẺ BẢO AN (Trung Kiết)
Ánh sáng của Đức Phât giúp soi đường chỉ lối.
Mặt trời mọc biển đông Thiện-hạ sáng soi cùng Việc làm hoà hiệp tốt Vạn sự đắc hanh thông
Cầu quan, thấy có nhiều hi vọng Việc tính sau rồi ắt đặng xong Thưa kiện giải hoà không tổn thất Ra đi mưu lợi, toại lòng mong Cầu tài may gặp bảy phần đến Nhà cửa an ninh, khỏi hoạ hung Gã cưới kết hôn loan phụng hiệp Thị-phi khẩu-thiệt tận tiêu vong
Phật rằng thời vận sáng trong Việc làm tấn thối, tuỳ lòng định phân Hằng ngày đạo đức ân cần Công danh phú quý nhờ chưng tu hành.
Quẻ số 17 D D D A A
QUẺ HỈ CHÍ (Trung Kiết)
Chúng ác đều tiêu diệt Đoan nhiên phước khí sanh Như kẻ đi đêm tối Nay thấy đặng trăng thanh
Thưa kiện biện tranh hoà giải tất Bệnh nhân lành mạnh khỏi lo rầu Cầu quan ắt đặng vào danh vị Việc tính thành công toại ý cầu Kẻ ở xứ xa tìm gặp mặt Ra đi mưu lợi, kẻ tiền thâu Cầu tài may đến tám phần lợi Gã cưới kết hôn hiệp ý đầu
Phật rằng ác nghiệp đã tiêu Tự nhiên phước đến, gặp nhiều sự vui Khuyên người cội đức vun bồi Lánh miền khổ hải, vãng hồi Tây-Phương
Quẻ số 18 D D A D A
QUẺ BẢO TOÀN (Trung Bình)
Việc lành tua giữa chặt Dục lợi, kiện thưa nhiều Mọi sự gìn như cũ Làm phước hoạ tai tiêu
Ra đi mưu lợi đặng an ổn Việc tính sau thành, trước khó khăn Khẩu-thiệt thị-phi đều chẳng hại Kiện thưa tranh biện, lý gia tăng Cầu tài may đặng sáu phần thắng Thai-nghén sanh con phước lộc tràng Gã cưới kết hôn, công gắng trước Bán buôn đổi chác, toại lòng toan
Phật bảo lối cũ duy trì Chớ tham dục lợi, thị-phi sanh nhiều Đắn đo, dè-dặc mọi điều An thân thủ phận, hoạ tiêu phước thành
Quẻ số 19 D D A A D
QUẺ DO DỰ (Hạ Hạ)
Quẻ xem nhiều sảng-sốt Vì của phải phiền than Thi ân thành mắc oán Việc thế chẳng hoà an
Việc tính lôi-thôi, không toại ý Ra đi e gặp sự tai ương Kiện thưa rắc rối, khó hoà giải Tìm kẻ đi xa, chẳng gặp đường Gã cưới kết hôn không hiệp đặng Cầu tài bất lợi, tổn hao thường Bán buôn đổi-chác không thành tựu Kẻ bệnh trầm kha, chứng bất tường
Phật rằng thời vận đảo-điên Của tiền lo-lắng, sanh phiền khổ than Khuyên người đạo đức lo toan Làm lành tưởng Phật, khỏi đàng tai ương.
Quẻ số 20 D A D D A
QUẺ PHONG NẨM (Trung Kiết)
Rễ sâu, nhành lá tốt Cây vượt mãi lên cao Kinh dinh thường đặng lợi Cây ít, lứa thâu nhiều.
Cầu quan đặng lộc, công danh toại Việc tính, tuỳ tâm kết quả lành Tìm kẻ xứ xa, may gặp mặt Ra đi mưu sự đặng an ninh Bệnh nhơn thuyên giảm, không chỉ hại Gã cưới kết hôn, ắt hiệp thành Nhà cửa bình an, không rối-rấm Cầu tài vận đến, lợi toàn sanh
Phật rằng vận gặp thời hưng Mọi đều toan tính,lần lần nên công Di-Đà sáu chữ rèn lòng Đời nên nhờ bởi gắng công tu hành
Quẻ số 21 D A D A D
QUẺ ĐẮC LỘC (Kiết)
Danh cao, lộc vị xứng Long phụng vượt Trời cao Ra vào đặng của báu Xa xứ khá mưu cầu
Việc tính dễ-dàng thâu quả tốt Thị-phi khẩu thiệt thảy tiêu tan Kiện thưa đắc lý, không chi ngại Kẻ bệnh thuốc than, đặng giảm an Gã cưới kết hôn, duyên phối hiệp Cầu tài lợi đến, dạ hân hoan Kết thai sau đặng sanh con quý Đổi-chác, bán buôn đặng lợi toàn
Phật rằng thời tới vinh quang Rồng mây gặp hội, cao thăng phẩm quyền Bồ-đề cội đức cố-kiên Cuộc đời ắt gặp nhiều duyên phước lành.
Quẻ số 22 D A A D D
QUẺ MINH HIỂN (Kiết)
Trời xanh trăng tỏ rạng Soi sáng tiệc đêm khuya Nhà nhà nhuần đức trạch Muôn dặm khói mây lìa
Cầu quan đắc vị hàng vinh hiển Việc tính toại tâm, kết quả lành Thưa kiện giải hoà, không tổn thầt Tìm người xa xứ, gặp tin an Ra đi mưu sự vừa lòng muốn Nhà cửa vinh quang, phước khí sanh Gã cưới kết hôn, loan phụng hiệp Cầu tài đắc lợi, đặng hân hoan
Phật rằng thời tới hiển vinh Tâm lành nhuần gội, phước sanh hoạ tàn Khuyên người niệm Phật vững vàng Hết nơi biển khổ, theo đàng Phật Tiên.
Quẻ số 23 A D D D A
QUẺ PHƯỚC LỘC (Kiết)
Nhà an, phước lộc đến Vinh hoa gpặ kiết tường Trăm việc đều vừa ý Muôn dặm huệ lan thơm
Ra đi may gặp đều lành tốt Việc tính chi chi cũng toại tâm Khẩu-thiệt thị-phi đều diệt hết Kiện thưa hoà kiết, hết phân vân Cầu tài chắc đặng nhiều hi vọng Xa xứ nay về viếng cố thân Gã cưới kết hôn, cầm sắc hiệp Bán buôn đổi-chác lợi vô lần
Phật rằng duyên phước khéo tu Ngày nay vận đến, gặp hồi vinh quang Bồ-đề cội đức, bảo toàn Theo đường Tiên Phật, phước tăng bội phần.
Quẻ số 24 A D D A A
QUẺ NGƯNG TRỆ (Hạ)
Ngựa gầy lên dốc đứng Kẻ đói gặp đường xa Bước tới đầy nguy ngại Trở lui, hoa chẳng qua
Việc tính trệ trầm, không kết quả Ra đi bất lợi, của tiền hao Cầu tài mất vốn, không hi vọng Thưa kiện cầu hoà, ấy chước cao Gã cưới kết hôn đều trở ngại Bệnh nhơn trầm trọng khổ dường bao! Cửa nhà buồn bực, sanh tai chướng Đổi-chác, bán buôn, thất lợi sâu
Phật rằng thời vận bất tề Mọi điều ngưng trệ, khó bề lo toan Khá mau cầu nguyện giải nàn Làm lành tưởng Phật, mới an cửa nhà.
Quẻ số 25 A D A D D
QUẺ HIỂN ĐẠT (kIẾT)
Ba họ cùng làm bạn Tường quan thoại khí sanh Chín phần gây sự nghiệp Trăm phước tự nhiên thành
Cầu quan liền đặng công danh toại Khẩu-thiệt thị-phi thảy tận tiêu Thưa kiện giải hoà, không thất lý Cầu tài lợi đến, chín phần thâu Người đi xa xứ về quê cũ Đổi-chác bán buôn được lợi nhiều Kẻ bệnh thuốc than, lần khoẻ mạnh Cửa nhà hưng vượng khỏi phiền lao
Phật rằng vận đặng hanh thông Việc làm minh bạch, thành công rõ ràng Từ đây hoạ giảm phước tăng Vun trồng cội đức, gấm từng theo hoa.
Quẻ số 26 A A D D D
QUẺ PHƯỚC HẬU
(Kiết)
Lục hoà ứng quẻ tốt Tiền của được thu nhiều Đi xa về xứ cũ Khoái lạc, hoạ tai tiêu
Cầu quan sẽ đặng vào ngôi thứ Người ở xa về đến cố hương Thưa kiện tám phần mong đắc thắng Ra đi lo việc hiệp lòng trông Cầu tài thâu hoạch nhiều phần lợi Gã cưới kết hôn, hiệp một đường Nhà cửa an ninh thêm khoái lạc Bệnh nhơn thuyên giảm, khỏi tai ương
Phật rằng quẻ ứng kiết xương Gặp nhiều phước hậu, gia đường hoà quang Khá gìn chặc thiện-căn Thường làm phương-tiện, độ an khó nghèo.
Quẻ số 27 A D D D D
QUẺ THÁI BÌNH (Kiết)
Mưa chan tưới giống mạ Lo gì chẳng bội thâu Vui vẻ tự nhiên đến Bình yên hết khổ sầu
Ra đi lo việc gặp điều tốt Người ở xứ xa trở lại quê Thưa kiện biện tranh hoà giải hết Cầu tài đắc ý, lợi nhiều bề Kết hôn gã cưới thành loan phụng Ứng thí, rồng mây đắc vận thì Lục giáp sanh trai, con đáng quý Bệnh nhơn nhờ phước, khỏi tai nguy
Phật rằng vận đạt an ninh Phước đời lần gặp, quang vinh cửa nhà Khá gìn saú chữ Di-Đà Tu nhơn tích đức, lánh xa tội tình.
Quẻ số 28 D D D A D
QUẺ ĐIÊN HIỂN (Hung)
Dạo xa lạc giữa đường Trời tối khuất tà dương Kinh tâm không chỗ trú Sau trước khó lo lường
Việc tính mọi đường không đặng thuận Ra đi bất lợi, chớ lo toan Cầu tài mất vốn, không sanh lợi Người lạc xứ xa, khó hỏi han Kiện thưa rắc rối, nhiều tổn hại Gã cưới kết hôn, việc bất thành Nhà cửa chẳng an nhiều lộn xộn Bệnh nhơn trầm trệ thật nguy nan
Phật rằng số mạng suy vi Vì chưng nghiệp ác phải tuỳ quả hung Khá mau cội đức vun trồng Làm lành lánh dữ, vận cùng hoá thông
Quẻ số 29 D D A D D
QUẺ KHAI PHÁT (Bình)
Niềm tin vào Quan thế ấm sẽ được soi đường chỉ lối
Mắt ong châu bửu hoá Đá sanh ngọc sáng loà Tài phát cầu mưu đạt Hoạ thối, phước lần ra
Cầu quan sẽ đặng chức quyền nhỏ Người ở xa về đến cố hương Thưa kiện nên hoà, không tổn thất Ra đi an ổn, khỏi tai ương Cầu tài sẽ thấy nhiều hi vọng Gã cưới kết hôn, gặp kiết tường Kẻ bệnh giảm thuyên, lần khoẻ mạnh Bán buôn đổi chác, khởi đầu nan
Phật rằng vận mới hưng lai Của tiền, việc tính, từ nay phát lần Khuyên người đạo-đức ân-cần Công danh do tại nghĩa nhân dựng thành.
Quẻ số 30 D D D D A
QUẺ ƯNG DƯƠNG (Kiết)
Binh trời trừ cướp giặc Dương cờ thắng trận về Tướng soái công huân thưởng Quân sĩ rạng danh bia
Ra đi ắt gặp điều may mắn Người ở xứ xa trở lại nhà Thưa kiện hợp thời mong đắc lý Cầu tài sẽ đặng thiểu lần đa Kết hôn gã cưới thành loan phụng Lục giáp sanh nam, gấm điểm hoa Đổi chác bán buôn đều đắc lợi Tính toan mưu sự lợi lần ra
Phật rằng quẻ ứng vận cường Lướt qua các sự tai ương khổ nàn Việc làm hậu dị, tiên nan Thành công đắc quả nhờ tăng chí bền.
Quẻ số 31 D A D D D
QUẺ HẬU KIẾT
(Bình)
Dép mỏng đi trên tuyết Cầu hư lúc gượng qua Trùng trùng nguy hiểm thấy Xuân đến sắc quang hoa
Khoa thi được ít điều hi vọng Người ở xứ xa, chẳng đặng tin Thưa kiện rốt rồi may đắc lý Cầu tài lợi được thiểu phần sanh Kết hôn gã cưới khó thành tựu Nhà cửa rối ren, ít gặp lành Toan tính hiện giờ, không toại ý Bán buôn đổi-chác, lợi bình bình
Phật rằng vận mạng chưa thông Việc chi cũng phải rèn lòng nhẫn kiên Khá tua niệm Phật làm hiền Qua hồi vận hỉ, phước duyên đến liền.
Quẻ số 32 A A A A A
QUẺ TUYỆT TÍCH
(Hung)
Bạc vàng vùi đất bụi Ngọc quý lấp bùn dơ Bao giờ ra mặt đặng Rực rỡ khỏi lu lờ!
Cầu quan thất ý, không hi vọng Người ở xứ xa bị khổ đau Thưa kiện biện tranh toàn bất lợi Ra đi có hại, chớ mong cầu Của tiền tổn thất, không mưu đặng Kẻ bệnh trầm kha, khổ biết bao! Gã cưới kết hôn đều thất bại Tính toan trăm việc, uổng công lao
Phật rằng quẻ thiệt chánh hung Vận thời cùng khổn, khó mong vẫy vùng Tồn tâm đạo đức cố cùng Mới mong thoát khổ, tai ương khỏi mình
Quan the âm bồ tát linh quẻ rất vô cùng linh ứng nếu ai thành tâm tin tưởng đến bồ tát.
Và khi nếu xin xăm quan âm bồ tát linh quẻ hỏi việc đại sự đều có sự mách bảo của Thần linh. Quẻ này có thể xin tại chùa hoặc nhà riêng cũng được.
Với quẻ quan âm linh xăm các bạn sẽ tự tin hơn khi quyết định bất cứ công việc gì.
Mời Quý Phật tử hoan hỷ ngắm nhìn hình ảnh những mẫu tượng Phật Quan Âm đẹp do cơ sở điêu khắc tượng Phật Trần Gia tôn tạo:
Nhận xét tích cực từ quý khách hàng của cơ sở điêu khắc tượng Phật Trần Gia:
CƠ SỞ ĐIÊU KHẮC TRẦN GIA.
Chuyên Tư Vấn – Thiết Kế – Thi Công Các Công Trình Nghệ Thuật
Đa Dạng Kích Thước – Đa Dạng Chất Liệu .
Trụ sở chính : 27 Đường số 1, khu phố 5, P. Hiệp Bình Phước, Q. Thủ Đức, Tp. Hồ Chí Minh
Lâm Đồng : 57 Nguyễn Chí Thanh, Nghĩa Lập, Đơn Dương, Lâm Đồng
Website : dieukhactrangia.com
Hotline : 0931.47.07.26
Email : [email protected]
Quẻ Quan Âm: Đậu Yên Sơn Tích Thiện
Quẻ thượng cát thuộc cung Tuất. Phúc phận trên đời, mọi người đều có thể gặp được. Không cần phải cố gắng đi tìm, mọi thứ đã được sắp xếp rồi.
Thử quái phúc đức hiện thản chi tượng. Phàm sự đại cát lợi dã. Điển cố quẻ Quan Âm: Đậu Yên Sơn Tích Thiện
Đậu Yên Sơn (907 – 960), vốn tên là Đậu Vũ Quân, là người U Châu, sống vào triều Hậu Tấn thời Ngũ Đại. Vì U Châu thời cổ thuộc nước Yên, người đời sau lấy tên đất để gọi người khác, nên mới gọi ông là Đậu Yên Sơn.
Đậu Vũ Quân từ nhỏ đã mất cha, nhờ có mẹ nuôi dưỡng trường thành, rất hiếu thuận với mẹ, chưa từng có điều gì trái ý mẹ. Thời xưa, nếu đến ba mươi tuổi vẫn chưa có con đã phải lo lắng bị tuyệt hậu. Đậu Vũ Quân đã hơn ba mươi tuổi, vẫn không có con cái. Đậu Vũ Quân rất khổ sở vì việc này. Một hôm, ông nằm mơ thấy ông nội đã mất hiện lên nói với Vũ Quân rằng: “Ác nghiệp của cháu rất nặng, cho nên mệnh vận đời này của cháu không chỉ là không có con, mà tuổi thọ cũng rất ngắn. Mong cháu hãy sớm hồi tâm hướng thiện, nỗ lực làm việc cứu nhân độ thế, hy vọng có thể chuyển biến được nghiệp, cứu vãn được mệnh vận!” Đậu Vũ Quân tỉnh dậy, ghi nhớ Iòá của ông nội, từ đó quyết chí không làm việc ác, mà làm nhiều việc thiện.
Nhà họ Đậu có một người đầy tớ, đã ăn trộm hai vạn tiền bạc của Đậu Vũ Quân, sợ bị phát giác, bèn viết một tờ giấy nợ, treo trên cánh tay đứa con gái nhỏ, viết rõ rằng: “Bán đứa con gái này, để đền số tiền nợ”. Rồi người đầy tớ trốn đi nơi khác. Sau khi Đậu Vũ Quân biết chuyện, đem đốt tờ giấy nợ của người đầy tớ đi, lại nuôi dưỡng đứa con gái của anh ta chu đáo. Sau khi bé gái lớn lên, Đậu Vũ Quân còn chuẩn bị của hồi môn cho cô, tìm cho cô một người chồng tử tế.
Một năm, Đậu Vũ Quân đến chùa Diên Khánh lễ Phật, ngẫu nhiên nhặt được hai trăm lượng bạc trắng, ba mươi lượng vàng ở bên cạnh tấm đệm ngồi, ông nghĩ rằng đây chắc chắn là vật của người đi lễ Phật đánh mất, bèn đi tìm kiếm người mất của. Sau đó ông nhìn thấy một người đang khóc lóc, tự lấm bẩm gì đó. Đậu Vũ Quân hỏi anh ta vì sao mà khóc, người đó nói: “Cha tôi bị bọn bắt cóc bắt đi, tôi phải đi hỏi vay bạn bè thân thích khắp nơi, mượn được một chút bạc vàng, chuẩn bị đi chuộc cha tôi về, nào ngờ tôi lại đánh mất rồi!” Sau khi xác nhận người này đúng là chủ nhân bị mất của, Đậu Vũ Quân liền đem số vàng bạc trả lại đầy đủ, lại còn tặng thêm cho anh ta một khoản lộ phí.
Đậu Vũ Quân làm rất nhiều việc thiện. Trong số bạn bè thân thích ai có việc tang mà không đủ tiền mua quan tài, ông liền bỏ tiền mua quan tài giúp để khâm liệm; có người nào gia cảnh nghèo khó mà con cái không thể dựng vợ gả chồng, ông cũng bỏ tiền giúp việc kết hôn, khiến cho trong không có đàn ông không vợ, ngoài không có phụ nữ không chòng. Đối với những người nghèo khó không kế sinh nhai, ông cho họ mượn tiền, giúp cho họ có chút vốn để buôn bán. ông còn xây dựng bốn mươi gian thư viện, tập trung hàng nghìn quyển sách, mời thầy giáo có đức có tài, cho trẻ em đến học hành. Đối với những con em nghèo khó, ông còn nộp học phí giúp. Mặt khác, ông sống rất tiết kiệm, không hề lãng phí.
Một hôm, Đậu Vũ Quân lại nằm mơ, mơ thấy ông nội nói với mình rằng: “Nhiều năm nay, cháu đã làm không ít việc tốt, ông trời thấy cháu tích được âm đức rất lớn của cháu, mà tăng thêm tuổi thọ cho cháu, còn ban cho cháu năm quý tử, sau này đều rất hiển đạt. Sau này sau khi cháu hết số mệnh, có thể đến được cõi tịnh độ Cực Lạc.”
Từ đó về sau, Đậu Vũ Quân lại càng nỗ lực tu thân tích đức, sau đó quả nhiên sinh được năm người con trai, cả năm người con đều lần lượt thi đỗ tiến sĩ. Bản thân Đậu Vũ Quân cũng làm quan đến chức Gián nghị đại phu, hường thọ tám mươi hai tuổi. Trước khi lâm chung, ông đã tính trước được thời gian, bèn đi từ biệt bạn bè thân thích, tắm gội thay quần áo, nói cười vui vẻ mà qua đời.
Quẻ Quan Thế Âm Võ Tắc Thiên Đăng Vị
Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói Đây là điển cố thứ Bốn mươi trong quẻ Quan Thế Âm, mang tên Võ Tắc Thiên Đăng Vị (còn gọi là Võ Tắc Thiên Lên Ngôi). Quẻ Quan Thế Âm Võ Tắc Thiên Đăng Vị có bắt nguồn như sau:
Võ Tắc Thiên (sinh năm 624 – mất năm 705) là nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc, cũng là vị hoàng đế có độ tuổi khi kế vị lớn nhất (sáu mươi bảy tuổi lên ngôi). Bà là con gái thứ của Võ Sĩ Hoạch, một vị khai quốc công thần đời Đường, quê quán ở huyện Văn Thủy, tỉnh Sơn Tây. Bà trải qua tuổi thơ và thời niên thiếu ở Lợi Châu, Tứ Xuyên, không rõ tên thực là gì, năm mười bốn tuối vào hậu cung làm Tài nhân, Đường Thái Tông ban cho tên là Mị, mọi người gọi là Võ Mị Nương.
Võ Tắc Thiên giỏi lập mưu tính kế, lòng dạ thâm hiểm, hành động quả quyết. Năm hai mươi bảy tuổi, bà sinh hạ người con gái trưởng, theo “Tư trị thông giám” ghi chép, khi con gái cả được một tháng, bà liền đem con gái cho đi. Do Vương hoàng hậu đã gặp đứa bé gái này trước đó, nên Mị Nương vu tội cho Vương Hoàng hậu, khiến Đường Cao Tông rất tức giận, phế truất Vương Hoàng hậu làm dân thường.
Năm Vĩnh Huy thứ sáu (năm 655), Đường Cao Tông lập Võ Tắc Thiên làm Hoàng hậu. Năm Thượng Nguyên thứ nhất (năm 674), bà và Cao Tông cùng xưng là “nhị thánh”. Năm Hoằng Đạo thứ nhất (năm 683), Cao Tông qua đời, Trung Tông là Lý Hiển lên ngôi, Võ Tắc Thiên trở thành Hoàng thái hậu, lên triều chấp chính.
Năm Tự Thánh thứ nhấ t (năm 684), Võ Tắc Thiên phế truất Trung Tông làm Lư Lăng Vương, lập Duệ Tông Lý Đán làm vua, bản thân tiếp tục lên triều chấp chính. Năm Tải Sơ thứ nhất (năm 689), Vố Tắc Thiên phế truất Duệ Tông, tự xưng là “Thánh Thần hoàng đế”, đối tên nước là “Chu”, đặt Đông Đô Lạc Dương là Thần Đô, sử sách gọi là nhà Võ Chu.
Quẻ Quan Thế Âm Võ Tắc Thiên Đăng Vị là quẻ thẻ Trung Bình trong quẻ thẻ quan âm, là quẻ số 40 !
Trong thời gian nắm quyền, Võ Tắc Thiên bãi chức các lão thần, chọn dùng những quan lại tàn ác. Các trọng thần từ đầu đời Đường, như Trưởng Tôn Vô Kỵ, Chử Toại Lương, Vu Chí Ninh, Bùi Viêm, số ít thì bị bãi chức, còn phần lớn bị giết hại. Bà tố chức kỳ thi điện, lập ra các chế độ khoa cử như võ cử (thi võ), tự cử (tự mình tiến cử), thí quan; trên lĩnh vực kinh tế đã áp dụng các chủ trương như “giảm thuế, chấm dứt chiến tranh, bớt lao dịch”, vì thế trong một nửa thế kỷ bà cầm quyền, tình hình kinh tế xã hội trở nên vững mạnh, uy lực quốc gia được chấn hưng.
Tháng giêng năm Thần Long thứ nhất (năm 705), Trương Giản Chi, Hoàn Ngạn Phạm, Thôi Huyền, Kính Huy nhân cơ hội Võ Tắc Thiên tuối cao bị bệnh, đã liên kết với Hữu Vũ Lâm Đại tướng quân Lý Đa Tộ phát động cuộc đảo chính, ép Võ Tắc Thiên thoái vị, đón vua Trung Tông trở lại ngôi vị. Tháng mười một năm ấy, Võ Tắc Thiên qua đời, hưởng thọ tám mươi hai tuối. Để lại di chiếu “bỏ đế hiệu, xưng là Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng hậu”. Người đời sau thường gọi bà là “Võ Tắc Thiên”.
Từ nhà Tần, Hán đến nay, các vị hoàng đế không aỉ không mong muốn sau khi chết được lập bia truyền thế, nhưng trong lịch sử Trung Quốc có duy nhất một vị nữ hoàng đế lại để lại một tấm “vô tự bi’ (bia không chữ), trên tấm bla không khắc một chữ nào. Nguyên nhân của sự việc này có nhiều thuyết khác nhau: Thuyết thứ nhất cho rằng, Võ Tắc Thiên lập “vô tự bi” là để tự khoe mình, thể hiện công cao đức lớn, không có chữ nghĩa nào có thể thể hiện được; thuyết thứ hai cho rằng, Võ Tắc Thiên tự biết tội mình rất lớn, cảm thấy không viết văn bia sẽ tốt hơn; thuyết thứ ba cho rằng, Võ Tắc Thiên là người sáng suốt tự biết mình, là công hay tội, đúng hay sai, hãy để cho người đời sau phán xét, đây là biện pháp tốt nhất; còn có một thuyết khác cho rằng, con trai của Võ Tắc Thiên rất hận mẹ mình, nên bà vốn dĩ đã viết sẵn cho mình một bài văn bia, nhưng lại bị con trai giấu chôn vào trong mộ, để lại một tấm bia không có chữ.
Quẻ này là tượng âm tăng dương giảm. Những việc mong cầu trước khó sau dễ.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Hương Giang (XemTuong.net)
Quẻ Quan Thế Âm Hà Văn Tú Ngộ Nạn
Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói Đây là điển cố thứ Ba tám trong quẻ Quan Thế Âm, mang tên Hà Văn Tú Ngộ Nạn (còn gọi là Hà Văn Tú Gặp Nạn). Quẻ Quan Thế Âm Hà Văn Tú Ngộ Nạn có bắt nguồn như sau:
Hà Văn Tú là con trai của một trung thần, từ nhỏ đã đọc sách, tính ham hiếu biết, năm mười bảy tuổi, bị gian thần Cao Tung hãm hại, cả gia đình gặp tai ương, chỉ có duy nhất Hà Văn Tú trốn thoát, bất đắc dĩ phải đi hát đạo tình kiếm sống. Một hôm, vì cha của Vương Quỳnh Trân bày tiệc mừng thọ, đã gọi Hà Văn Tú đến nhà hát đạo tình. Vương Quỳnh Trân thấy Hà Văn Tú thân thế đáng thương, lại tài mạo song toàn, liền sai a hoàn mời Hà Văn Tú đến hoa viên gặp mặt.
Do thấy cảm thương và yêu mến, nên Vương Quỳnh Trân đã tặng bạc cho Hà Văn Tú, mong cậu gắng học hành, lên kinh dự thi. Đúng lúc này, người cha đi vào hoa viên, bắt gặp tình cảnh đó, cho rằng con gái và gã trai nghèo khổ hát đạo tình đang ngầm đính ước với nhau, làm nhục đến gia phong, nên vô cùng tức giận, chiểu theo phong tục địa phương, cho Hà Văn Tú và Vương Quỳnh Trân vào bao tải, đem dìm xuống nước cho chết. Người mẹ xót thương con gái, thấy tình hình nguy cấp, vội tìm viên Tống quản đến, lệnh cho ông ta ngầm lặn xuống vớt bao tải lên, để Hà Văn Tú và con gái trốn đi nơi khác. Trên đường đi, hai người đã đính ước chuyện trăm năm.
Quẻ Quan Thế Âm Hà Văn Tú Ngộ Nạn là quẻ thẻ Trung Bình trong quẻ thẻ quan âm, là quẻ số 38 !
Hà Văn Tú dẫn vợ lên kinh dự thi, trên đường đi qua Hải Ninh, gặp tên ác bá Trương Đường. Trương Đường cậy thế lực của cha là Nghiêm Tung, hoàng hành ngang ngược không sợ pháp luật, dân chúng hết sức oán hận. Hắn thèm khát nhan sắc của Vương Quỳnh Trân, muốn âm mưu chiếm đoạt, nhưng không thể thực hiện được. Trương Đường buồn bực thành ra tức giận, bèn giết chết tỳ nữ của mình, lại vu cáo là do Hà Văn Tú làm, vì thế Hà Văn Tú bị gọi đến tra hỏi. Quan tri huyện Hải Ninh tra tấn Hà Văn Tú, buộc Hà Văn Tú nhận tội, định gán tội chết cho Hà Văn Tú. Trương Đường lại đút lót quan Giải sai (người áp giải tù nhân), hòng ngấm ngầm hãm hại Hà Văn Tú, may mà quan Giải sai Vương Đức là người trượng nghĩa, đã lén thả Hà Văn Tú ra, cho cậu trốn thoát. Trương Đường hãm hại Hà Văn Tú, lại cướp đoạt Vương Quỳnh Trân. Để thay chồng báo thù, Vương Quỳnh Trân giả vờ đồng ý chuyện thành thân với Trương Đường, rắp tâm đâm chết Trương Đường trong đêm tân hôn. Nhưng kế hoạch không thành công, bèn bỏ trốn ngay trong đêm, được nữ chủ nhân của quán trà “Tật Ác Như Cừu” (ghét cái ác như thù) là bà Dương giải cứu. Để trốn tránh kẻ quyền thế, Vương Quỳnh Trân theo gia đình bà Dương trốn ở thôn Hạnh Hoa trong vườn dâu cửu Lý.
Hà Văn Tú gặp đại nạn mà không chết, đổi tên thành Vương Sát, sau ba năm, dự thi và đỗ cao, vâng mệnh nhậm chức Bát phủ tuần án ở Giang Nam. Hà Văn Tú mặc quần áo thường dân đi thị sát dân tình, tại Hải Ninh đã điều tra được rất nhiều tội ác của Trương Đường, lại tìm được tung tích của người vợ Vương Quỳnh Trân. Hà Văn Tú hóa trang thành một thầy đoán mệnh, dò hỏi được nơi ở của vợ mình. Đến nơi, thấy Vương Quỳnh Trân lập bài vị cúng tế, rất cảm động khi biết rằng Vương Quỳnh Trân vẫn tưởng nhớ tới mình, lại nhớ đến những oan ức mà hai vợ chồng gặp phải, trong lòng vui buồn lẫn lộn.
Để diệt trừ Trương Đường, Hà Văn Tú buộc phải tạm thời chưa dám nhận người vợ đã xa cách bấy lâu, chỉ biết dùng thân phận là thầy đoán mệnh để khuyên giải Vương Quỳnh Trân, lại thay vợ viết cáo trạng, sắp xếp cho Vương Quỳnh Trân đến nha môn của Tuần phủ kêu oan. Khi quan Tuần án thăng đường, Trương Đường vẫn hết sức ngạo mạn, trước rất nhiều chứng cứ xác đáng, hắn không những không nhận tội, mà ngược lại còn hổng hách uy hiếp Hà Văn Tú. Hà Văn Tú không sợ lời đe dọa “mất quan cách chức khó toàn mệnh”, cương quyết xử trảm Trương Đường. Hà Văn Tú và Vương Quỳnh Trân đã trải qua biết bao khố nạn, cuối cùng vợ chồng lại được đoàn viên.
Quẻ này là tượng mây mù che lấp mặt trăng. Những việc mong cầu đều không được như ý, nên giữ nguyên hiện trạng vốn có.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Hương Giang (XemTuong.net)
Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Hoài Đức Chiêu Thân
Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói Đây là điển cố thứ Hai ba trong quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát, mang tên Hoài Đức Chiêu Thân (còn gọi là Hoài Đức Thành Thân). Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Hoài Đức Chiêu Thân có bắt nguồn như sau:
Cao Hoài Đức (926 – 982) là một đại tướng nối tiếng thời Bắc Tống, có sức mạnh hơn người, từng lập nhiều chiến công hiển hách. Khi nổ ra cuộc binh biến Trần Kiều, ông đã đem long bào khoác lên mình Triệu Khuông Dấn, buộc Triệu Khuông Dấn lên ngôi hoàng đế. Sau này, khi Triệu Khuông Dấn đã làm hoàng đế, Cao Hoài Đức và Thạch Thủ Tín thấy được ý đồ “tiệc rượu trả bỉnh quyền” (Triệu Khuông Dần mượn cớ tố chức tiệc rượu đế thu hồi binh quyền của các tướng), nên hai người đã chủ động trao trả binh quyền, rồi rút lui để toàn thân.
Triệu Khuông Dấn rất yêu mến Cao Hoài Đức, viên đại tướng có khí phách anh hùng, ứng biến linh hoạt, tuy không thích đọc sách nhưng rất hiểu âm luật (Cao Hoài Đức có thể tự sáng tác nhạc khúc), nên ông đã chủ động chọn Cao Hoài Đức làm rể của nhà mình.
Cao Hoài Đức đến trung niên thì mất vợ, vào chầu cả ngày mặt ủ mày chau, cũng không thích trò chuyện với người khác. Triệu Khuông Dấn thấy vậy, liền bàn bạc với Đỗ thái hậu, muốn gả em gái là Yên Quốc Trưởng công chúa cho Cao Hoài Đức. Đỗ Thái hậu rất vui mừng, nhưng chưa đồng ý ngay. Nguyên nhân là “đàn ông được tái hôn, nhưng phụ nữ không được tái giá”, Trưởng công chúa tuy tuổi chưa quá hai mươi, vẫn trẻ trung xinh đẹp, nhưng lại là quả phụ, xét về lễ là không được.
Biết được nguyên do khiến Thái hậu lưỡng lự, Triệu Khuông Dấn nghĩ cách rồi cười nói: “Vậy để trẫm hỏi ý công chúa xem sao!” Thái hậu cười, gật đầu đồng ý. Triệu Khuông Dấn gọi Trưởng công chúa đến, hỏi công chúa đã từng gặp đại tướng Cao Hoài Đức của nhà Tống, ấn tượng với Cao Hoài Đức như thế nào. Trưởng công chúa đã gặp Cao Hoài Đức, thấy người này lưng hố eo gấu, phong thái ngời ngời, lại đang ở trong độ tuổi có sức hấp dẫn nhất của người đàn ông. Trưởng công chúa khéo léo dùng một vài lời ca ngợi để thể hiện thiện cảm với Cao Hoài Đức cho Triệu Khuông Dấn biết. Triệu Khuông Dan ngầm hiểu công chúa đã bằng lòng, bèn vỗ tay mà nói: “Vậy hãy để trẫm làm chủ, gả công chúa cho Cao tướng quân!” Công chúa đáp: “Thánh thượng là hoàng đế, lại là huynh trưởng, tiểu muội làm sao dám trái ý?”
Về phía Trưởng công chúa đã có được câu trả lời, Triệu Khuông Dẩn bèn triệu kiến hai trọng thần là Triệu Phổ và Đậu Nghị, để giao phó việc hôn nhân. Triệu Phố và Đậu Nghị đích thân đến nhà Cao Hoài Đức, muốn làm người mai mối cho Cao Hoài Đức. Cao Hoài Đức vừa nghe đến Yên Quốc Trưởng công chúa thì rất vui mừng, ông đã gặp Trưởng công chúa, biết nàng còn trẻ và xinh đẹp, nhan sắc hơn người. Hơn nữa, cưới Trưởng công chúa, như vậy sẽ không còn giống như Tôn Quyền và Chu Du “đã thiệt phu nhân lại mất quân”, không chỉ cưới được người vợ đẹp, lại đường đường trở thành phò mã, danh chính ngôn thuận là hoàng thân quốc thích!
Ba người trò chuyện vài câu, Triệu Phổ và Đậu Nghị liền vào triều bẩm báo. Triệu Khuông Dấn lệnh cho quan Thái sử chọn ngày tốt, cử hành hôn lễ cho Cao Hoài Đức và Yên Quốc Trưởng công chúa, lại ban cho Cao Hoài Đức một dinh cơ ở phường Hưng Ninh, phong cho ông làm Phò mã Đô úy. Trưởng công chúa được gặp vị lang quân như ý, không còn cô quạnh nữa. Cao Hoài Đức vui mừng vì có được người vợ xinh đẹp bầu bạn, để lại giai thoại “trong không có đàn bà không chồng, ngoài không có đàn ông không vợ”, ai nấy đều chọn được bạn đời như ý.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Hương Giang (XemTuong.net)
Cập nhật thông tin chi tiết về 32 Quẻ Quan Âm Linh Xăm trên website Hartford-institute.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!