Xu Hướng 11/2023 # Bản Chất Của Bói Toán Là Gì ? # Top 11 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Bản Chất Của Bói Toán Là Gì ? được cập nhật mới nhất tháng 11 năm 2023 trên website Hartford-institute.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Mạn Đà La : – Anh Quang Tử thân mến. Em học Phật nhưng chưa hiểu sâu. Em thắc mắc về vấn đề nhân quả nghiệp báo có ảnh hưởng tới lá số Tử Vi của mỗi người hay không ?

Em có được người ta xem Tử Vi và em biết lá số mình không tốt. Và em thấy đúng là có vài điều ứng nghiệm như lá số đã thể hiện. Vậy thì tất cả những điều này có phải do nhân quả của tiền kiếp quá khứ tạo ra không ?

Và khi mình làm những điều phúc thiện, nó có thể thay đổi số mệnh được hết không ? hay chỉ là một phần rất nhỏ.

Theo sự hiểu biết của anh, mong anh hoan hỉ chia sẻ cho em hiểu thêm về vấn đề này. Cảm ơn anh nhiều.

Quang Tử :

Tôi sẽ kể lại cho bạn một câu chuyện, câu chuyện ấy sẽ giúp bạn nhanh chóng hiểu vấn đề.

“Thời vua Hán Cảnh Đế tại Trung Quốc, có một vị được mệnh danh là thần tướng. Ông chỉ cần một cái nhìn thoáng qua là biết được tỏng tòng tong tính tình, vận hạn, số phận cả đời của người trước mặt. Sự chính xác trong lời đoán của ông thật là kì lạ, trăm lần không sai lấy một.

Một bữa kia, ông đang đi dạo trên phố, chợt thấy cậu thanh niên nọ có một tướng lạ: Hai đường chỉ chạy từ cằm lên khóe miệng. Ông tiến lại và nói với cậu:

_ Này chàng trai, trên mặt cậu có tướng chết đói. Trong vòng mươi năm nữa, họa này sẽ xảy đến với cậu.

Thanh niên ấy tên Bùi Độ, là một người bán dầu nghèo khổ. Vì danh tiếng của lão thần tướng quá lớn, Bùi Độ có muốn nghi ngờ cũng không được. Anh buồn rầu ra về với cái án tử hình treo lơ lửng trong vô hình. Anh không còn tha thiết với điều gì nữa, ngày ngày buồn rầu ủ rủ.

Một ngày kia, trên đường đi anh thấy một cô gái vừa khóc lóc thảm thiết, vừa định nhảy xuống giếng sâu. Bùi Độ chặn lại hỏi, thì biết được cô gái kia tên Ngọc Hà, đang trên đường đem vàng đi để chuộc tội cho cha, xong đến đây lỡ tay làm rơi túi vàng xuống giếng.

Mọi người cho biết rằng dưới giếng có một con trăn rất dữ, rất nguy hiểm, đã xuống rồi coi như cầm chắc cái chết, nên cũng không ai dám giúp. Thế nhưng cô gái cứ chăm chăm nhảy xuống, định không lấy được vàng thì sẽ chết ở đây luôn.

Bất chợt mắt Bùi Độ sáng lên, nghĩ thầm trong đầu: “Đúng rồi, đằng nào cũng chết, sao ta không đem cái chết của mình để làm một việc nghĩa? Như vậy không hay hơn sao?”

Nghĩ là làm. Dù tim đập loạn xạ, chân tay run lẩy bẩy, anh vẫn liều mạng leo xuống. Không hiểu vì sao nhưng anh không bị trăn ăn thịt. Lặn ngụp hồi lâu anh cũng lấy được túi vàng đem lên cho Ngọc Hà. Nhờ đó, Ngọc Hà được toàn mạng, cha cô được giải oan, danh dự, quyền thế được phục hồi.

Cảm kích ơn cứu mạng của Bùi Độ, Ngọc Hà đem anh về cho anh ăn học đàng hoàng. Rồi sau xin cha được theo anh “nâng khăn sửa túi” suốt đời. Hôn lễ được cử hành không lâu sau đó trong niềm hân hoan của tất cả thân quyến xóm làng.

Sau đó, cha vợ Bùi Độ nhờ một người quen có chức có quyền tiến cử anh làm chức quan ở vùng khác. Từ đó, anh không ngừng thăng quan tiến chức.

Cuộc đời anh giờ ngập trong sung sướng, quyền quý vinh hoa, nhà cửa gia nhân không thiếu thứ gì. Nhưng anh vẫn mang một nỗi lo sợ mình sắp chết.

Cho đến một hôm kia anh tình cờ gặp lại vị thần tướng. Sau một cái nhìn sắc bén, đôi mắt của thần tướng lộ vẻ ngạc nhiên vì tướng chết đói trên mặt anh không còn nữa.

– Này chàng trai – thần tướng nói – tướng chết yểu trên mặt anh đã mất, chẳng hay gần đây anh có làm điều gì phúc đức lắm?

Chàng trai kể lại mọi chuyện. Vị thần tướng gật gù, từ giã ra đi sau khi đã chúc lành cho anh.

Còn anh trở về với nỗi vui sướng khôn siết. Anh đã vụt thoát khỏi bàn tay nghiệt ngã của định mệnh. Từ nay anh có thể yên tâm, làm gì thỏa thích.

Và anh làm thật! Kể từ đó, anh bắt đầu sống hưởng thụ sa đọa, với những trò vui hoang tàn, vô độ. Nắm quyền chức trong tay, anh biến thành một tên tham quan bạo ngược. Vơ vét của dân, cưỡng bức con gái nhà lành, tiếng oán thán thấu tận trời xanh.

Ngày tháng cứ trôi đi, cảnh oan ức cứ thế kéo dài. Đến một ngày kia, lần thứ ba anh gặp lại vị thần tướng.

Vị thần tướng nheo mắt nhìn anh. Với con mắt tinh anh và thâm thúy, ông hiểu ngay mọi chuyện, đồng thời cũng thấy luôn tướng chết đói đã quay trở lại. Thần tướng nghiêm giọng:

_ Này kẻ vô đức, cậu đã một lần thoát khỏi cái chết vì biết quên thân cứu người. Nay lại không biết tu thân tích đức thêm cho sâu dày, lại đổ đốn, sa đọa, hoang tàn hống hách, làm những chuyện đồi bại tàn ác. Tướng chết đói lại hiện ra rồi đó, lo về tính chuyện hậu sự đi.

Tên quan Bùi Độ tức giận bỏ đi. Vì đã quen thói ngông cuồng, nên giờ thần tướng hay không cũng bất chấp. Cứ tiếp tục sống cuộc sống tội lỗi không chút áy này. Lương tâm hắn giờ đã bị danh lợi dục vọng nuốt chửng.

Quả nhiên không lâu sau đó, dân kiện lên đến triều đình. Quan khâm sai được phái xuống điều tra, rồi bắt hắn về kinh xét xử. Trên đường áp giải, hắn bỏ trốn, chạy thoát được vào rừng. Một thời gian sau, người ta tìm thấy xác hắn chết đói bên cạnh một mỏm đá. Lần này, tử thần đã chụp được hắn với bản án bi thảm: chết đói – đúng như lời thần tướng nói.”

Như bạn thấy, các môn bói toán, xem tướng, phong thủy nói chung, thực sự có thể tính ra được số phận con người, người ta thường gọi là tiên tri, xong bản chất là các môn này tính toán ra được Nhân quả tội phước trong quá khứ của một người.

Nếu các môn này chỉ là mê tín, thầy nào phán cũng sai bét, thế thì chắc chắn không thể tồn tại mấy nghìn năm qua, lại còn phát triển vô cùng phong phú, tinh vi và chuyên nghiệp đến vậy. Tuy nhiên, chúng ta cần phải hiểu nguyên lí của chúng, nếu không sẽ tạo ra rất nhiều hiểu lầm tai hại, kiểu như ” Số phận đã định trước không thể thay đổi” , hay “Có một thần linh, thượng đế nào đó an bài, định đoạt sướng khổ đời người” .v.v…

Số phận của bất kì người nào, đều chính là do Nghiệp lực, còn gọi là “Nhân quả tội phước” của người đó tạo ra bằng những việc thiện hoặc bất thiện trong các kiếp trước, và cả kiếp này.

Số Nghiệp lực này, số “Nhân quả tội phước” này không phải bí mật hoàn toàn, mà nó được thể hiện ra, hay nói cách khác, là được ra “Thông báo” bằng những mật mã ẩn trong ngày giờ sinh, trong những yếu tố thiên thời, địa lợi, điềm báo .v.v…

Các thuật sĩ, chiêm tinh gia, thầy bói, thầy phong thủy … là những người biết cách giải các mật mã này để xem được bản “Thông báo” để biết được ít nhiều nội dung trong đó. Và thực ra, mỗi một môn chỉ giải mã được một phần của bản “Thông báo” này, chứ không môn nào giải mã được hết 100%.

Thế nên, bạn để ý sẽ thấy, thầy bói, thầy phong thủy, thầy tướng… nói có khi khác nhau, xong đều không sai, vì rằng mỗi người nói đúng được một phần của Số phận. Kiểu như trong chuyện “Thầy bói xem voi”, mỗi ông nói con voi một kiểu, xong không ông nào nói sai hẳn, và cũng không ông nào nói đúng một cách tổng thể được.

Đầu tiên ta cần chia ra 2 trường phái bói toán, một là các môn bói toán dựa trên ngày- giờ- tháng- năm sinh của một người ( hay một vật), hai là các môn bói toán dựa trên những yếu tố biến đổi liên tục, như thuật xem Tướng, các môn Chiêm bốc gieo quẻ, quan sát phong thủy, địa lý, giải điềm báo… trong đó, các yếu tố: tướng mạo của một người, hay nhà cửa, nơi sinh sống, các điềm báo, thiên tượng … đều không ngừng biến động, hễ nhân quả thay đổi, là chúng cũng sẽ thay đổi theo.

Lá số Tử Vi nói riêng, cũng như kết quả tính toán của các môn bói toán dựa theo ngày giờ sinh nói chung, là một bản tổng kết đơn giản về phước tội quá khứ nhiều kiếp qua.

Các môn này diễn giải nhân quả tội phước quá khứ theo kiểu công thức âm dương , ngũ hành, cung mệnh …. thôi, chứ cũng không được như những người có Túc Mạng Thông như Đức Phật, hay các đệ tử Phật, như Edgar Cayce…, nói rõ ra là tiền kiếp tạo nghiệp gì, làm phước gì mà kiếp này ra như thế.

Tức là nhiều kiếp qua, tổng số phước & tội của người đó, đan xen nhau, hay bù trừ cho nhau xong, thành ra Nghiệp báo như thế nào, quyết định trong kiếp này người đó sẽ được hưởng những phước gì, chịu những nghiệp gì, tiền tài, danh vọng, hôn nhân, tính cách ra sao v.v… thì bói toán tính ra được phần kết quả, xong lại không biết được phần nguyên nhân. Vì sao, vì nghiệp gì, phước gì mà ra kết quả như thế, bói toán không biết được.

Và thêm điểm mấu chốt là, Tử Vi – và các cách bói toán dựa theo ngày giờ sinh, không tính ra được là nếu kiếp này, nếu người đó tiếp tục tạo thêm phước – hoặc gây thêm tội, thì cuộc sống sẽ thay đổi như thế nào.

Vì khi một người trong hiện tại, tạo phước lớn, hay gây ra tội nặng, thì nhân quả Nhân quả tội phước lập tức sẽ thay đổi.

Chẳng hạn, Tử Vi cho biết rằng người này cả đời không thể có con. Tuy nhiên, anh ta gặp một vị cao tăng, khuyên thường xuyên phải phóng sinh. Anh ta nghe theo, nhiệt tình thực hành phóng sinh liên tục vài năm. Cuối cùng vẫn sinh được quý tử.

Không phải Từ Vi tính sai, mà do anh ta tạo phước, khiến nghiệp cũ tiêu trừ, phước mới tăng thêm, số mệnh đã được sửa lại, mà Tử Vi – và các cách bói toán dựa theo ngày giờ sinh chỉ tính được quá khứ, chứ không tính được sự sửa chữa số mệnh trong hiện tại & tương lai.

Ngược lại, hiện tại nếu một người tạo thật nhiều việc bất thiện, sẽ khiến cái vốn liếng Phước – Tội của quá khứ thay đổi : phước bị tổn giảm, và nghiệp khổ tăng lên.

Chẳng hạn, Tử Vi phán rằng người này thọ 70 tuổi, nhưng vào năm 30 tuổi anh ta tạo nghiệp sát sinh nặng, giết trâu, giết chó quá nhiều, tuổi thọ sẽ bị giảm xuống, tới 45 tuổi đã mắc bệnh chết. Cái này không phải do Tử Vi tính sai, mà là do nhân quả nghiệp báo của người này đã thay đổi.

Lưu ý, phải là tạo tội, hoặc tạo phước ‘THẬT NHIỀU’ mới có thể khiến cho nhân quả thay đổi một cách rõ ràng, có thể nhận ra ngay trong hiện tại. Như trong chuyện Bùi Độ trên, việc thiện anh ta làm là liều mạng cứu người, phước rất lớn, lập tức số mạng chuyển từ chết đói thành vinh hiển.

Và khi anh ta tạo tội, cũng là những tội nghiêm trọng, hà hiếp bao nhiêu dân lành khiến tiếng tiếng oán thán thấu tận trời xanh. Số mạng lại xoay chuyển lập tức, từ vinh hiển thành chết đói.

Nếu chỉ là những tội nhỏ, phước nhỏ lặt vặt thì phải lâu xa nhiều kiếp sau mới thấy nhân quả diễn ra, chứ không nhanh như vậy.

Tóm lại, Tử Vi – bói toán dựa theo ngày giờ sinh chỉ tính được phần vốn liếng tội phước quá khứ, chứ không tính được sự thay đổi Tội – Phước mà người đó tạo ra trong kiếp hiện tại.

Còn các môn như Tướng thuật, các môn Chiêm bốc gieo quẻ, quan sát phong thủy, địa lý, giải điềm báo… do dựa vào những tham số có thể biến đổi theo Nhân quả, như hình tướng của một người; thế cục, phương hướng nhà cửa đất đai nơi người đó ở, các hiện tượng thiên thời, địa lợi khác nhau .v.v… thì vẫn có thể tính được “Số phận mới” khi một người đã tạo thêm tội – phước trong hiện tại.

Giống như câu chuyện về Bùi Độ trên, tướng mạo của Bùi Độ thay đổi liên tục theo những việc làm thiện ác anh ta làm. Thầy tướng theo dõi tướng mạo anh ta là biết được tương lai sẽ thế nào.

Lưu ý, những môn này thực ra cũng chỉ tính ra được thôi, chứ không có quyền thay đổi gì cả. Thế nên có đi phẫu thuật sửa tướng cũng không có tác dụng gì cả. Giống như ở trước một con đường đèo nguy hiểm, nhà nước thường cắm một cái biển báo hình tam giác, màu vàng để mọi người lái xe biết phía trước có đèo.

Giờ một kẻ nào đó đến nhổ cái biển báo lên, vứt đi, với ảo tưởng ” không còn biển báo là không còn đèo” thì thật là hài hước.

Cái đèo vẫn còn nguyên, bất chấp có biển báo hay không. Cũng như vậy, Nghiệp của một người vẫn còn nguyên, bất chấp mọi hình thức sửa tướng. Cái đèo chỉ thực sự biến mất, khi có người khổ công san bằng quả núi, tạo một con đường khác an toàn hơn để đi. Cũng như vậy, Nghiệp chỉ thay đổi, khi một người bỏ công ra tu tập, sám hối, tạo phước…tạo ra một số phận mới.

Chung quy lại, số phận sướng khổ của một con người, chính là do Nhân quả tội phước của chính người đó tạo ra từ kiếp xưa, hay trong kiếp này quyết định.

Mọi thế lực khác như Số phận, định mệnh, hay thần linh cai quản, ban phước giáng họa, thậm chỉ cả đến sổ sinh tử của Diêm Vương, cùng với mọi phương thuật khác như bói toán, phong thủy, tướng thuật .v.v… đều phải tuân theo quyền lực tối thượng mang tên “Nhân quả tội phước” của từng người.

Mà Nhân quả tội phước lại do chính ý nghĩ – lời nói – hành động thiện ác của mỗi người quyết định. Vậy, số phận thực sự vẫn nằm trong tay mỗi người tự định đoạt, nhưng không phải muốn làm gì thì làm, theo kiểu ” Cố là được ” nhưng nhiều kẻ không biết trời cao đất dày lầm tưởng, mà là cần làm đúng theo quy luật NHÂN QUẢ mới làm chủ số phận được.

Không có bất kì thế lực nào dù là Ngọc Hoàng tối cao với thần thông quảng đại, hay trận đồ phong thủy của cao nhân nào có thể bẻ gãy được Nghiệp lực, có thể vẽ ra lối tắt hòng qua mặt được Nhân quả tội phước được.

Nếu có kẻ dại đột nào cố tình dùng thần thông, dùng bùa chú, hay phong thủy… cố gắng bẻ gãy Nghiệp lực của người khác ( như các thầy bùa, thầy phong thủy hay làm) thì sau một thời gian ngắn, chính kẻ đó sẽ phải gánh lấy những hậu quả nghiêm trọng do lực phản vệ của Nghiệp.

Vậy, việc giúp đỡ một người khác, nếu không dùng thần thông, hay phương thuật gì cả, chỉ là giúp đỡ bình thường như tặng tiền, cho thuốc, giúp đỡ công sức… có phải là chống lại Nghiệp lực không ?

Xin thưa là KHÔNG ! Luật nhân quả không hề cứng ngắc. Luật nhân quả không hề cấm mọi người xung quanh giúp đỡ người có đang chịu quả báo khổ, cũng không phải là không có cách gì hóa giải các nghiệp xấu. Như người bị bệnh, chắc chắn là do nghiệp, nhưng ta hoàn toàn có thể dùng phước của mình , ví dụ như dùng tiền bạc, ta cầm tiền ra mua thuốc tặng cho người đó, và thế là người đó uống vào liền được khỏi bệnh.

PHƯỚC CỦA NGƯỜI NÀY CÓ THỂ BÙ ĐẮP CHO NGHIỆP XẤU CỦA NGƯỜI KHÁC. Có nghĩa là phước của mình như tiền bạc, sức lực, quyền lực… có thể đem ra giúp người khác thoát quả báo đau khổ, đây là một thực tế mà ta dễ dàng nhận thấy trong cuộc sống.

Vậy thế nghiệp xấu của người đó biến đi đâu mất ? Nghiệp không tự nhiên sinh ra, cũng không tự dưng biến mất, chỉ là Nghiệp đó đã được chuyển hóa thành một dạng khác, đó là DUYÊN NỢ.

Hiện tại, hoặc tương lai, luật Nhân quả sẽ sắp xếp cho người được giúp phải làm cách này hay cách khác để đền ơn cho ân nhân đã giúp mình. Người được giúp không phải chịu quả báo đau khổ nữa, nhưng sẽ phải đem thân mạng, tài sản, sức lực, phước báo… của mình để trả ơn cho ân nhân.

Giống như trong chuyện trên, cha con cô gái Ngọc Hà, đáng lí theo nghiệp cũ phải chịu nạn. Nhưng nhờ Bùi Độ liều mạng cứu mà được thoát tai ách. Sau đó, Ngọc Hà thì đem cả cuộc đời theo “nâng khăn sửa túi”, cha Ngọc Hà thì đem gia sản, các mối quen biết… báo đáp cho Bùi Độ khiến anh ta một bước lên mây. Đó là một ví dụ điển hình về sự chuyển hóa từ Nghiệp sang Nợ. Như thế, Nhân quả vẫn luôn là công bằng.

Tuy nhiên, sự cứu giúp như thế chỉ ảnh hưởng trong một chừng mực nào đó mà thôi, chứ không luôn luôn giải quyết hết được vấn đề. Bằng chứng là đến cả thần y Võ Hoàng Yên, hay bệnh viện hiện đại nhất cũng đâu thể cứu chữa được cho mọi bệnh nhân thoát khỏi mọi bệnh tật đâu. Muốn giải quyết hết vấn đề, thì phải làm sao cho người cần được giúp, hiểu ra quy luật Nhân quả, bắt tay vào tu hành, sám hối để làm tiêu trừ được nghiệp quá khứ, tạo thêm nhiều việc thiện để tăng trưởng phước báo.

Chỉ khi một người dứt trừ được các nghiệp xấu quá khứ, bằng cách tu tập sám hối, và tạo được nhiều phước báu mới, thì tự nhiên Nhân quả sẽ sắp xếp cho họ một “số phận mới”. Nói cách khác, phương pháp hay nhất vẫn là giúp cho mọi người tự mình điều khiển Nhân quả của chính mình, tự an bài Lá số Tử Vi của chính mình, bằng cách tu hành, tạo phước dựa trên sự hiểu biết đúng đắn về Nhân quả nghiệp báo. Và đó là một trong những cách mà Phật Pháp cứu giúp cho nhân loại, cho chúng sinh hàng ngàn năm qua.

Nói chung , luật nhân quả là quyền lực tối thượng, may mắn cho chúng ta là quyền lực tối thượng ấy lại có thể điều khiển được.

Luật nhân quả dù phức tạp, bí ẩn, xong lại rất linh hoạt, nếu ta nắm rõ nhân quả, hiểu sâu nhân quả, và biết can thiệp một cách khéo léo thì có thể giải quyết trọn vẹn mọi vấn đề , dù là vấn đề của thế gian hay xuất thế gian.

Xin cảm tạ công đức đọc, thực hành và chia sẻ nội dung trên website này!

Tính Chất Cơ Bản Của Sao Quốc Ấn

Tính chất cơ bản của sao Quốc Ấn

Nếu xấu là trường hợp chết đi để cả nước biết tới uế danh. Như các trường hợp hình sự giết người man rợ, hay những việc làm gây tai họa lớn mà để lại tiếng tăm tới khắp mọi nơi, nhẹ hơn là các trường hợp lập dị. Ngày nay việc cả quốc gia biết tới chính bản thân không khó khăn do tác động của công nghệ thông tin xã hội ngày càng phát triển. Quốc Ấn làm mạnh thêm cho Lộc Tồn, nếu có thêm Hóa Lộc hình thành cách Lộc trùng điệp, thêm cát diệu được luận là cách giàu có, bộ Song Lộc có tính tài cách lớn, Quốc Ấn làm to thêm tính chất này. Quốc Ấn còn là ngôi sao của sự ghi dấu ấn, cần hiểu rõ vì ý nghĩa quan trọng. Như tạc tượng của một danh nhân có công lao to lớn tới quần chúng cũng có Quốc Ấn chủ sự lưu giữ lại mang tính biểu tượng. Quốc Ấn có tính chất thu trữ, tích trữ do có Lộc Tồn tại vị trí tam hợp. Sao này chứa đựng sự uy tín, là vật có giá trị để thể hiện một sự kiện hay bản thân. Vì thế sao này có tính chất đại diện và chủ sự quý hiểm nếu đi cùng các sao có cùng ý nghĩa như Khôi Việt, Cô Quả. Khi có mặt trong cách cục xấu vong mạng chủ những kỷ vật còn giữ tượng trưng của một người. Nhìn chung khi luận tử vi thường chú ý tới cách Hình Ấn. Quốc Ấn thường biểu hiện cho sự thịnh vượng nếu không bị phá cách. Cách Hồng Ấn là cách cục mang ý nghĩa rất hay, gia tăng tính chất to lớn cho Quốc Ấn trở nên tốt đẹp hơn. Quyền Ấn thể hiện tính quyền lực. Cách Triệt Ấn có ý nghĩa xóa đi tính biểu tượng, xóa đi biểu tượng một nền văn minh là xóa đi toàn bộ di tích của nó. Ngoài ra có cách Kỵ Ấn, Kiếp Ấn đều là cách xấu, mang tính cản trợ hay tai họa với ý nghĩa của Quốc Ấn.

Bản Chất, Khí Chất Của Người Tuổi Ngọ (Ngựa) Theo Quan Niệm Phong Thủy Đông Phương

Năng động, biết làm tiền, thích đi đây đi đó. Tuổi Ngọ là con Giáp du mục trong mười hai con giáp.

Tới lui từ chổ này, dự án nọ, sang chổ khác, chương trình khác.

Giỏi là biết làm ra tiền. Làm ra tiền cốt để thỏa mản ước vọng ngầm là cũng có chút đỉnh với người ta. Tuy vậy tuổi này vừa lo làm tiền mà vẫn giữ được tính độc lập và tự do cho mình.

Tuổi Ngựa vừa tình tứ lại vừa kín đáo khiến nên thường kẹt trong tình thế khó xử. Thế nhưng ái tình đến với tuổi này một cách dễ dàng.

Bởi lẽ tuổi Ngọ tự mình phô bày hoặc quyến rũ người khác phái. Cứ xem trong các buổi tiệc tùng, bạn thấy tuổi Ngựa có lẽ là tuổi thường hay có mặt nhất.

Mặc dù Tuổi này không có tính phô trương lắm nhưng cũng gắng tỏ ra là mình biết, mình khôn, mình giỏi một phần nào đó.

Ðiểm lạ là tuổi Ngựa hay cảm thấy mình hơi thua kém bạn bè chút đỉnh nên hay thay đổi nhóm bạn chỉ vì vô cớ cảm thấy mình có gì không hoàn chỉnh lắm.

Tính thiếu kiên nhẫn này khiến cho tuổi Ngựa ít chú tâm đến nhu cầu của người khác.

Tuổi này thà nắm chắc tình huống trong tay mình trước chớ không chờ đến kẻ khác tác động đến hoặc cho ý kiến vô.

Tính “Một thân một ngựa” này khiến người khác phải né xa ra, nhưng lại khiến cho Tuổi này hùng dũng hơn và dễ thành công hơn.

Tuổi Ngựa rất là tự tin và sẵn sàng làm bất cứ việc gì để tiến lên trước hơn người khác.

Mặc dù tuổi Ngựa không có khuynh hướng nhìn xa một sự việc, nhưng lại rất nhạy bén biết điều gì là cần làm.

Tuổi này hăng làm và làm được việc thật sự. Ðiều cần bổ túc lớn nhất cho tuổi Ngựa là phải tập cho tâm tính hòa nhã.

Có như vậy mới không bị chao đảo và thấy rằng hạnh phúc trong đời là ngay đây, không phải đâu xa.Nguồn:Phong Thủy Tổng Hợp

Cùng Danh Mục: Liên Quan Khác

Hướng Dẫn Xem Bói Toán Cơ Bản

– Đọc xuôi:

GIÁP – thuộc Dương hành Mộc.

ẤT – thuộc Âm hành Mộc.

BÍNH – thuộc Dương hành Hỏa.

ĐINH – thuộc Âm hành Hỏa.

MẬU – thuộc Dương hành Thổ.

KỶ – thuộc Âm hành Thổ.

CANH – thuộc Dương hành Kim.

TÂN – thuộc Âm hành Kim.

NHÂM – thuộc Dương hành Thủy.

QUÝ – thuộc Âm hành Thủy.

Tất cả 5 Can Âm và 5 Can Dương, đều thuộc vào Ngũ hành (Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ) và chia đều nhau cứ 2 Can chung 1 Hành.

12 Chi là:

– Đọc xuôi:

Tý thuộc Dương hành Thủy

Sửu thuộc Âm hành Thổ

Dần thuộc Dương hành Mộc

Mão thuộc Âm hành Mộc.

Thìn thuộc Dương hành Thổ.

Tỵ thuộc Âm hành Hỏa.

Ngọ thuộc Dương hành Hỏa.

Mùi thuộc Âm hành Thổ.

Thân thuộc Dương hành Kim.

Dậu thuộc Âm hành Kim

Tuất thuộc Dương hành Thổ

Hợi thuộc Âm hành Thủy.

– Tổng cộng là 6 Chi Âm và 6 Chi Dương, đều thuộc vào Ngũ hành. Cứ mỗi Ngũ hành kiêm 2 chi, chỉ trừ hành Thổ kiêm 4 chi (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi). Mỗi hành 2 Chi còn dư 2 Chi, chia nữa thì lẻ, . Hành Thổ vốn người Trung ương, có quyền hơn, nên lấy 2 chi dư là danh chính ngôn thuận. Vì vậy ông Hành Thổ được quyền hưởng 4 chi.

Ngũ hành:

Sinh: Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim.

Khắc: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim.

Năm trường hợp tốt:

– Giáp hợp Kỷ – Đinh hợp Nhâm

– ất hợp Canh – Mậu hợp Quý

– Bính hợp Tân

Mười trường hợp xấu:

– Giáp phá Mậu – Kỷ phá Quý

– ất phá Kỷ – Canh phá Giáp

– Bính phá Canh – Tân phá ất

– Đinh phá Tân – Nhâm phá Bính

– Mậu phá Nhâm – Quý phá Đinh

Vấn đề hợp:

Tam hợp gồm:

– Dần, Ngọ, Tuất

– Thân, Tý, Thìn

– Tỵ, Dậu, Sửu

– Hợi, Mão, Mùi

Nhị hợp gồm:

– Tý hợp Sửu – Thìn hợp Dậu

– Dần hợp Hợi – Tỵ hợp Thân

– Mão hợp Tuất – Ngọ hợp Mùi

Vấn đề khắc:

– Tý khắc Ngọ – Tỵ khắc Hợi

– Mão khắc Dậu – Thìn khắc Tuất

– Dần khắc Thân – Sửu khắc Mùi

Mạng Kim, gồm có các tuổi:

Nhâm Thân 1932 & Quý Dậu 1933;

Canh Thìn 1940 & Tân Tỵ 1941;

Giáp Ngọ 1954 & Ất Mùi 1955;

Nhâm Dần 1962 & Quý Mão 1963;

Canh Tuất 1970 & Tân Hợi 1971;

Giáp Tý 1984 & Ất Sửu 1985.

* Mạng Hỏa gồm có các tuổi:

Giáp Tuất 1934 & Ất Hợi 1935;

Mậu Tý 1948 & Kỷ Sửu 1949;

Bính Thân 1956 & Đinh Dậu 1957;

Giáp Thìn 1964 & Ất Tỵ 1965;

Mậu Ngọ 1978 & Kỷ Mùi 1979;

Bính Dần 1986 & Đinh Mão 1987.

Mạng Thủy gồm có các tuổi:

Bính Tý 1936 & Đinh Sửu 1937;

Giáp Thân 1944 & Ất Dậu 1945;

Nhâm Thìn 1952 & Quý Tỵ 1953;

Bính Ngọ 1966 & Đinh Mùi 1967;

Giáp Dần 1974 & Ất Mão 1975;

Nhâm Tuất 1982 & Quý Hợi 1983

* Mạng Thổ gồm có các tuổi:

Mậu Dần 1938 & Kỷ Mão 1939;

Bính Tuất 1946 & Đinh Hợi 1947;

Canh Tý 1960 & Tân Sửu 1961;

Mậu Thân 1968 & Kỷ Dậu 1969;

Bính Thìn 1976 & Đinh Tỵ 1977;

Canh Ngọ 1990 & Tân Mùi 1991.

* Mạng Mộc gồm có các tuổi:

Nhâm Ngọ 1942 & Quý Mùi 1943;

Canh Dần 1950 & Tân Mão 1951;

Mậu Tuất 1958 & Kỷ Hợi 1959;

Nhâm Tý1972 & Quý Sửu 1973;

Canh Thân 1980 & Tân Dậu 1981;

Mậu Thìn 1988 & Kỷ Tỵ 1989.

Mộc là biểu tượng mùa xuân, sự tăng trưởng và đời sống cây cỏ. Thuộc khí Âm: Mộc mềm và dễ uốn; thuộc khí Dương: Mộc rắn như thân sồi. Dùng với mục đích lành, Mộc là cây gậy chống; với mục đích dữ, Mộc là ngọn giáo. Cây tre ở Trung Quốc được ca ngợi về khả năng mềm dẻo trước gió nhưng lại được dùng làm giàn giáo.Được nhìn dưới hình tượng cây, năng lượng của Mộc có tính sinh sôi nẩy nở, nuôi dưỡng và mềm dẻo.

Tính cách của người thuộc hành này

Người mạng Mộc có tinh thần vì tha nhân và năng nổ. Là người nhiều ý tưởng, tính cách hướng ngoại của họ được nhiều người thương, giúp đỡ.

Tích cực – có bản tính nghệ sĩ, làm việc nhiệt thành.

Tiêu cực – thiếu kiên nhẫn, dễ nổi giận, thường bỏ ngang công việc.

Vạn vật thuộc hành này

Các loài thảo mộc, đồ đạc bằng gỗ, giấy, màu xanh lục, cột trụ, sự trang hoàng, tranh phong cảnh.

Hỏa là biểu tượng mùa hè, lửa và sức nóng. Có thể đem lại ánh sáng, hơi ấm và hạnh phúc, hoặc có thể tuôn trào, bùng nổ và sự bạo tàn. Ở khía cạnh tích cực, Hỏa tiêu biểu cho danh dự và sự công bằng; Ở khía cạnh tiêu cực, Hỏa tượng trưng cho tính gây hấn và chiến tranh.

Tính cách người thuộc hành này

Ngời mạng Hỏa yêu thích sự chủ động và thường nắm vai trò lãnh đạo. Họ thường lôi kéo người khác vào rắc rối, vì họ không ưa luật lệ và bất chấp hậu quả.

Tích cực – người có đầu óc tiên tiến, khôi hài và đam mê.

Tiêu cực – nóng vội, lợi dụng người khác và không mấy quan tâm đến cảm xúc.

Vạn vật thuộc hành này

Hình tượng mặt trời, nến đèn các loại tam giác, màu đỏ, vật dụng thủ công, tranh ảnh về mặt trời / lửa.

Mệnh thổ là biểu tượng về nơi ươm trồng, nuôi dưỡng và phát triển, nơi “sinh ký tử quy” (sống gửi thác về) của mọi sinh vật. Thổ nuôi dưỡng, hỗ trợ và tương tác với từng Hành khác. Khi tích cực, Thổ biểu thị lòng công bằng, trí khôn ngoan và bản năng. Khi tiêu cực, Thổ tạo ra sự ngột ngạt hoặc biểu thị tính hay lo lắng về những khó khăn không tồn tại.

Tính cách người thuộc hành này

Người mạng Thổ có tính tốt hay tương trợ người khác và trung thành. Vì thực tế và kiên trì nên họ là chỗ dựa vững chắc trong cơn khủng hoảng. Không những không bị thúc ép bất cứ điều gì, ngược lại họ rất bền bỉ khi giúp người khác. Do kiên nhẫn và vững vàng, họ có sức mạnh nội tâm rất lớn.

Tích cực – trung thành, nhẫn nại và có thể nhờ cậy.

Tiêu cực – thành kiến và có khuynh hướng “bới lông tìm vết”.

Vạn vật thuộc hành này

Đất sét, gạch, sành sứ, bê tông, đá, hình vuông, màu vàng, nâu.

Mệnh Kim là biểu tượng mùa thu và sức mạnh. Đại diện cho thể rắn và khả năng chứa đựng. Mặt khác, Kim ( kim loại) còn là vật chất truyền dẫn. Khi tích cực, Kim là sự truyền đạt thông tin, ý tưởng sắc sảo và sự công minh; Khi tiêu cực, Kim có thể là sự hủy hoại, là hiểm họa và phiền muộn. Kim có thể là một món hàng xinh xắn và quý giá mà cũng có thể là đao kiếm.

Tính cách người thuộc hành này

Người mạng Kim có tính độc đoán và cương quyết. Họ dốc lòng dốc sức theo đuổi những tham vọng của mình. Là những nhà tổ chức giỏi, họ độc lập và vui sướng với thành quả riêng của họ. Tin vào khả năng bản thân nên họ kém linh động, mặc dù hầu hết người mệnh Kim vẫn thăng tiến nếu biết thay đổi. Đây là loại người nghiêm túc và không dễ nhận sự giúp đỡ.

Tích cực – mạnh mẽ, có trực giác và lôi cuốn người khác.

Tiêu cực – cứng nhắc, sầu muộn và nghiêm nghị.

Vạn vật thuộc hành này

Tất cả các kim loại, hình dáng tròn bầu, mái vòm, vật dụng kim khí, cửa và bậc cửa, đồ dùng nhà bếp, màu trắng, xám, bạc và vàng ươm, tiền đồng, đồng hồ.

Người mạng Thủy giao tiếp tốt. Họ có khiếu ngoại giao và tài thuyết phục. Do nhạy cảm với tâm trạng người khác, họ sẵn sàng lắng nghe. Có trực giác tốt và giỏi thương lượng. Uyển chuyển và dễ thích nghi, họ nhìn sự vật theo quan điểm tổng thể.

Vạn vật thuộc hành này

Sông suối, ao hồ, màu xanh dương và màu đen, gương soi và kính, các đường uốn khúc, các hình uốn lượn, đài phun nước, hồ cá, tranh về nước.

Dựa vào ngũ hành chúng ta sẽ có những biện pháp sử dụng pháp khí, linh vật, vật phẩm thuộc ngũ hành tương sinh, tương khắc, sử dụng phương vị để giảm bớt những điều không may, tăng cường tài lộc may mắn, phúc lành cho từng người thuộc các mệnh Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

YẾU TỐ NGŨ HÀNH

Trong triết học Trung Hoa nói về Hà Đồ – Lạc Thư, đã phân định ra 2 khí Âm và Dương, khi hợp là1 chia thành 2, tách thành 4… Cũng trong Âm Dương có sinh phải có tử để quân bình sự sống, nên Tạo hóa đã ứng dụng thuyết Ngũ Hành để có sự sinh khắc trong đời sống tạo thành mối khép kín “sinh lão bệnh tử”, nên nếu thuận gọi là sinh còn nghịch gọi là khắc để có sự suy tàn, hủy diệt.

Ngũ Hành gồm có Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ.

Đến nay Âm dương Ngũ Hành được chấp nhận như sau :

– Âm Dương Ngũ Hành là KHÍ của vũ trụ, là VẬN khi chúng gặp nhau sinh biến động.

Về lý thuyết của Ngũ Hành được các nhà tượng số xem là 5 yếu tố căn bản. Sự sinh khắc của ngũ hành tương quan về luật giao hợp và sự thay đổi của Âm Dương, tạo nên muôn vật trên trái đất trong chu kỳ quay tròn mãi mãi.

– KIM thuộc những khoáng sản (than đá, kim loại)

– MỘC là thực vật, thảo mộc (cây cối, hoa cỏ)

– THỦY là nước (những gì thuộc dạng lỏng)

– HỎA là lửa (những gì thuộc chất nóng)

– THỔ là đất nói chung là khoáng chất (chưa hình thành ra khoáng sản).

Theo cổ học Trung Quốc, vua Phục Hy tìm thấy loại vật chất đầu tiên cấu tạo ra trái đất là hành Thủy.

Thứ tự của Ngũ Hành sẽ là Thủy – Hỏa – Mộc – Kim – Thổ.

Quan niệm trên cũng phù hợp với kết luận của các nhà khoa học châu Âu, khi họ khẳng định tìm thấy nguyên tố đầu tiên trong vũ trụ là nước tức hành Thủy, tiếp sau mới đến các hành Hỏa, Mộc, Kim và Thổ.

Trong khi các nhà tượng số lại thống nhất sắp xếp ngũ hành theo thứ tự theo vòng tương sinh : Mộc – Hỏa – Thổ – Kim – Thủy

Ngũ hành là bản thể của Âm Dương, là sự tồn tại các dạng vật chất. Khi vật chất bị bốc cháy thành hơi bay vào bầu trời thành ion điện trường đó là Dương. Các ion kết tụ thành các nguyên tố hóa học khác để tồn tại trên trái đất đó là Âm, khi chúng gặp nhau sinh ra hiện tượng sấm sét.

BIỆN CHỨNG NGŨ HÀNH

A/- VƯỢNG TƯỚNG HƯU TÙ TỬ

Sự sinh khắc tùy thuộc vào bản chất riêng, như Mộc sinh Hỏa hay Mộc khắc Kim, là sinh khắc một chiều, thực tế khi phân tích qua 5 bậc Vượng, Tướng, Hưu, Tù, Tử (bảng trang bên) ta tính được độ số cát hung như sau :

Thí dụ : Mậu Dần ngũ hành thuộc THỔ, thì hành Kim được lợi (vượng, do Thổ sinh Kim), hành Thổ thành đạt (tướng, lưỡng Thổ), hành Hỏa bị diệt (hưu, Hỏa sinh Thổ), hành Thủy bị khắc (tù, Thổ khắc Thủy), hành Mộc được sinh (tử, Mộc khắc Thổ), theo thuyết biện chứng :

– Thổ sinh Kim : Kim được sinh còn Thổ hao tổn, Thổ gặp sinh xuất.

– Thổ với Thổ : lưỡng thổ thành sơn, ở đây là Thổ được bồi đắp thêm.

– Hỏa sinh Thổ : Hỏa đốt cháy Mộc nên cả 2 Hỏa, Mộc đều tổn hại cho Thổ được sinh, tức Thổ được sinh nhâp.

– Thổ khắc Thủy : Thổ được tốt còn Thủy bị hao. Thổ gặp khắc xuất.

– Mộc khắc Thổ : Thổ bị hao tổn còn Mộc được hoá sinh (Tử có nghĩa là con, mới được sinh), nên Thổ bị khắc nhập.

Qua thí dụ trên, sự tương sinh hay tương khắc chỉ có 1 chiều : Thổ sinh được Kim chứ Kim không sinh được Thổ; Thổ khắc Thủy chứ Thủy không khắc được Thổ…

Hành được sinh (sinh nhập) có lợi : Kim được Thổ sinh thì Kim được lợi, còn Thổ thì hao tổn (sinh xuất).

Hành bị khắc (khắc nhập) thất lợi còn hành khắc cũng hao tổn, như Thổ là hành khắc (khắc xuất), còn Thủy là hành bị khắc (khắc nhập).

Theo lý thuyết được Sinh nhập, Khắc xuất là tốt. Còn bị Sinh xuất, Khắc nhập là xấu.

Nhưng còn tính chất hóa hợp xung của Thiên Can, Địa Chi nên không vì những điều trên phải lo lắng.

Tương sinh có nghĩa nuôi dưỡng, thúc đẩy, trợ giúp; còn tương khắc có nghĩa ràng buộc, khắc chế. Nhưng xét theo Vượng Tướng Hưu Tù Tử sẽ có ứng dụng khác nhau :

Gặp tương sinh chưa phải là tốt, thí dụ :

– Kim dựa vào Thổ sinh (Thổ sinh Kim), nhưng Thổ vượng thì Kim bị vùi lấp, mất tích.

– Thổ dựa vào Hỏa sinh (Hỏa sinh Thổ), nhưng Hỏa vượng thì Thổ trở thành khoáng sản than đá, kim loại.

– Hỏa dựa vào Mộc sinh (Mộc sinh Hỏa), nhưng Mộc vượng thì Hỏa đang thuộc hưu, tù, tử̀ không thể bốc lên đốt cháy được cây to.

– Mộc dựa vào Thủy sinh (Thủy sinh Mộc), nhưng nhưng Thủy vượng thì Mộc trốc gốc phải trôi giạt.

– Thủy dựa vào Kim sinh (Kim sinh Thủy), nhưng Kim vượng thì Thủy đục nước có nhiều tạp chất đầy nguy hại.

Cho nên gặp Tương khắc chưa phải đã hung, thí dụ :

– Kim khắc Mộc nhưng Mộc cứng thì Kim phải mẻ.

– Mộc khắc Thổ nhưng Thổ khô thì Mộc chết.

– Thổ khắc Thủy nhưng Thủy dâng cao thì Thổ bị trôi, bị sụp lở.

– Thủy khắc Hỏa nhưng Hỏa vượng thì Thủy khô cạn.

– Hỏa khắc Kim nhưng Kim nhiều thì Hỏa phải tắt.

Vì vậy hành nào là Vượng, Tướng dù bị khắc nhập hay sinh xuất đều vượt qua, còn những hành được sinh nhập hay khắc xuất đang ở thế Hưu, Tù, Tử, chuyển hung ra cát, chuyển cát thành hung.

Nhờ vậy mà chúng ta thấy sự sinh khắc của ngũ hành đều có những yếu tố xác định, như Mộc là cây cối tăng trưởng được là nhờ có Thủy (nuớc), nhưng cây không sống được ở sông mà phải sống trên đất, như vậy phải có Thổ (đất). Khi Mộc vượng thì Thủy lẫn Thổ đều gặp hao tổn. Trong ngũ hành đều có sự hỗ tương hay khống chế nhau, như Thổ bị khắc với Mộc (Mộc khắc Thổ) cần có Kim khống chế lại Mộc v.v…

Trong Hiệp hôn định cuộc cho rằng, lỡ gạo đã nấu thành cơm như Mộc lấy Thổ, để khắc chế hai mệnh Mộc và Thổ cần sinh đứa con tuổi Kim, gia đình tức khăc hòa thuận, hạnh phúc.

B/- ẤU – TRÁNG – LÃO

Ngoài yếu tố Vượng, Tướng, Hưu, Tù, Tử, nên tính thêm độ số Ngũ Hành Ấu Tráng Lão, như Ấu mới sinh chưa thể phát huy được tính cát hung cao như Tráng đã trưởng thành, hay Lão không còn sức công phá như thời thanh niên trai tráng.

Đo độ số Ngũ Hành Ấu Tráng Lão phải qua 12 cung tính đường Sinh Vượng – Tử Tuyệt của vòng Trường Sinh, gặp Thai, Dưỡng, Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng là tốt, vì 7 cung này Ngũ Hành đang trong giai đoạn phát triển từ Ấu đến Tráng, còn 5 cung Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt là xấu, do đang ở giai đoạn từ Tráng qua Lão

THAI : là khí kết tinh khi Âm Dương kết hợp.

DƯỠNG : khí đã hình thành (khí thiếu dương hay thiếu âm)

SINH (Trường Sinh) : khí đang phát triển, còn non.

DỤC (Mộc Dục) :khí bắt đầu trưởng thành.

4 giai đoạn Thai – Dưỡng – Sinh – Dục thuộc dạng Ấu, khi từ khí thiếu dương hay thiếu âm (Thai, Dưỡng) chuyển sang khí thái dương hay thái âm (Sinh, Dục), tức đã đủ lông đủ cánh.

ĐỚI (Quan Đới) :khí bắt đầu tăng trưởng

LÂM (Lâm Quan) : khí đã thịnh (thái dương, thái âm đã đầy đặn)

VƯỢNG (Đế Vượng) : khí tráng cực

SUY : khí bắt đầu suy yếu dần, vì đã qua thời kỳ tráng kiện, thiếu âm hay thiếu dương bắt đầu phát sinh.

4 giai đoạn Đới – Lâm – Vượng – Suy thuộc Tráng đi từ khí đang cực thịnh (Đới, Lâm, Vượng) sang suy yếu (Suy).

BỆNH : khí già nua nên bệnh lão hóa.

TỬ : khí đã tận.

MỘ : hấp hối chờ chết.

TUYỆT : không còn khí dương hay khí âm, khi thiếu âm hay thiếu dương đang ở giai đoạn chờ kết hợp.

4 giai đoạn Bệnh – Tử – Mộ – Tuyệt thuộc Lão, khi khí thiếu âm, thiếu dương hình thành thì khí thái dương hay thái âm sẽ bị diệt.

Qua Ấu Tráng Lão trong chu kỳ Lục Thập Hoa Giáp với 60 tên gọi, cứ hai cặp Can Chi có chung một tên Ngũ Hành Nạp Âm, và mỗi hành còn gồm 6 tên gọi khác nhau để đánh dấu các giai đoạn Ấu, Tráng, Lão nói trên.

Như hành Thổ có “Lục Thổ” có thứ tự : 1- Lộ Bàng Thổ, 2- Thành Đầu Thổ, 3- Ốc Thượng Thổ , 4- Bích Thượng Thổ, 5- Đại Trạch Thổ và 6- Sa Trung Thổ. Hành nào là Ấu, Tráng, Lão của vòng Trường Sinh thuộc giai đoạn nào, cùng Cung Phi nam nữ chúng ta có bảng kê trước đây.

– Nếu Ngũ Hành đi từ Âu rồi trở về Ấu (theo chu kỳ 60 năm) lúc về già sẽ hồi xuân, mang tính trẻ trung vô tư như thời niên thiếu (Ấu), nếu mệnh hợp có tài lộc, hưởng được thú an nhàn, còn mệnh khắc phải chịu gian nan, sống trong tuổi già phải nhờ con cháu nuôi dưỡng như khi mới ra đời.

– Nếu Ngũ Hành đi từ Tráng, Lão, Ấu sang Tráng nếu bị khắc sẽ có tiền cát hâu hung; nếu đi từ Lão, Ấu, Tráng rồi về Lão dù mệnh khắc cũng đều có hậu vận tốt đẹp.

Đó là tính chất của mọi loại ngũ hành, để tính hành nào non, hành nào trưởng thành, mạnh mẽ và hành nào sắp cạn kiệt, suy thoái.

Có nhiều trường hợp cần luận thêm :

– Thí dụ : Hải Trung Kim (kim dưới biển), tính theo biện chứng sinh khắc.

Khi tương sinh có Thổ sinh Kim và Kim sinh Thủy :

– Thổ sinh Kim : thì Thổ hao Kim lợi, nhưng hành Thổ nào cho hành Kim được lợi ? Xét qua bảng Lục Thổ chỉ có hai loại hành Thổ có thể cho Kim lợi, là Sa Trung Thổ, Đại Trạch Thổ hoặc tối thiểu là Lộ Bàng Thổ, là những hành Thổ có thể tạo ra kim loại tức Kim được sinh nhập.

– Còn Kim sinh Thủy : Kim hao Thủy lợi là sinh xuất xấu. Nhưng xấu hay tốt với hành Thủy nào ? Khi xét bảng Lục Thủy chỉ có Đại Khê Thủy, Đại Hải Thủy mới làm cho hành Kim gặp hao tổn, còn Giang Hà Thủy, Tuyền Trung Thủy và Trường Lưu Thủy, hành Kim ít bị tổn hao, nếu gặp Thiên Hà Thủy lại không tương sinh tương khắc với Kim.

Khi tương khắc cũng tính theo biện chứng trên, đồng thời hành bị khắc (là hành đứng sau) đang trong giai đoạn Ấu, Tráng hay Lão và độ số ở vòng Trường Sinh như thế nào, để tính cát hung cho thích hợp.

NGŨ MỆNH ĐẶC QUÁI

“Ngũ mệnh đặc quái” sẽ cho thấy Thiên Can và Địa Chi khi cùng một ngũ hành, phương vị với Bát Quái sẽ cùng có những cách hóa hợp xung cát hung giống nhau.

– Hành KIM :

Thiên Can có Canh – Tân, Địa Chi có Thân – Dậu khi gặp Mệnh – Ngũ Hành sau đây sẽ có những hợp hóa xung như sau :

– KIỀN hành Kim : Số công danh phú quý, tài lộc vào ra như nước.

– KHẢM hành Thủy : Bềnh bồng chìm nổi (Kim sinh Thủy), tổn hao nhiều.

– CẤN hành Thổ : Nên ẩn cư dù Thổ sinh Kim, để hưởng thú an nhàn là tốt.

– CHẤN hành Mộc : Toại ý, toại chí trong chừng mực không to lắm.

– TỐN hành Mộc : Mùa Xuân Hạ có lộc, còn mùa Thu Đông kém lộc.

– KHÔN hành Thổ : Nhờ được phúc đức từ âm tổ, có công danh địa vị vững (Thổ sinh Kim)

– LY hành Hỏa : Không được sở đắc nhiều.

– ĐOÀI hành Kim : Số đắc địa – tốt

– Hành MỘC :

Thiên Can có Giáp – Ất, Địa Chi có Dần – Mão. Khi gặp Mệnh – Ngũ Hành sau đây sẽ có những hợp hóa xung như sau :

– KIỀN hành Kim : Có nhiều hão huyền, sống thiếu thực tê, nên không thành công.

– KHẢM hành Thủy : Bị bế tắc, nhưng tiền hung hậu kiết, làm lớn lại không bền.

– CẤN hành Thổ : Tốt khi Xuân Hạ đến, xấu khi Thu Đông về.

– CHẤN hành Mộc : Có vinh hoa phú quý.

– TỐN hành Mộc : Tuổi nhỏ nhiều gian nan, trắc trở nhưng về hậu vận sẽ tốt hơn.

– KHÔN hành Thổ : Khi thời vận đến mới phát tài lộc.

– LY hành Hỏa : Bị tổn tài hao của.

– ĐOÀI hành Kim : mùa Thu mới khởi sắc có tài lộc.

– Hành THỦY :

Thiên Can có Nhâm – Quý, Địa Chi có Hợi – Tý. Khi gặp Mệnh – Ngũ Hành sau đây sẽ có những hợp hóa xung như sau :

– KIỀN hành Kim : Gặp thời cơ vô cùng phát đạt như nước chảy xuôi, nhiều thuận lợi.

– KHẢM hành Thủy : Bị hãm địa lúc cát lúc hung, tài lộc bất định, nhiều suy nghĩ viễn vông.

– CẤN hành Thổ : Gặp nhiều hiểm trở.

– CHẤN hành Mộc : Dù được sở cầu như ý nhưng thân xác không được nhàn hạ.

– TỐN hành Mộc : Sóng gió, bôn ba lập nghiệp. Về mùa Thu Đông coi chừng tán tài tản lộc.

– KHÔN hành Thổ : Số nhàn hạ có tài lộc.

– LY hành Hỏa : Số ba chìm bảy nổi, khắc khổ, gian truân, thành bại đều có.

– ĐOÀI hành Kim : Kim sinh Thủy nên tài lộc dồi dào, công danh thăng tiến.

– Hành HỎA :

Thiên Can có Bính – Đinh, Địa Chi có Tỵ – Ngọ. Khi gặp Mệnh – Ngũ Hành sau đây sẽ có những hợp hóa xung như sau :

– KIỀN hành Kim : Tính quang minh, có trí thông minh, nếu thêm hào vị tốt sẽ có địa vị cao.

– KHẢM hành Thủy : Gặp phản phúc, tiểu nhân quấy phá (Thủy khắc Hỏa).

– CẤN hành Thổ : Hao tài, tổn thọ.

– CHẤN hành Mộc : Dù Mộc sinh Hỏa nhưng tài lộc giữ không bền.

– TỐN hành Mộc : Như lửa gặp gió, bạo phát, nên có cơ hội nên khởi sự ngay.

– KHÔN hành Thổ : Tuy không gian nan nhưng lại nhiều lo nghĩ.

– LY hành Hỏa : Lửa gặp lửa sẽ bốc, nhưng không nhiều may mắn. Có tiểu nhân rình rập ám hại.

– ĐOÀI hành Kim : Tính hay nghi ngờ, công việc trì trệ, tài lộc kém.

– Hành THỔ :

Gồm các cung KHÔN – CẤN, Thiên Can có Mậu – Kỷ, Địa Chi có Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Khi gặp các Mệnh – Ngũ Hành sau đây sẽ có những hợp hóa xung như sau :

– KIỀN hành Kim : Thời cơ bất nhất nên vận lúc cát lúc hung.

– KHẢM hành Thủy : hãm địa, công viêc không toại ý.

– CẤN hành Thổ : Vào những tháng Tứ Mộ (các tiết Thanh Minh, Tiểu Thử, Hàn Lộ và Tiểu Hàn, tức Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) sẽ có tài lộc tốt.

– CHẤN hành Mộc : Có thương tổn tài vật, làm nhiều cung không đủ cầu, vất vả.

– TỐN hành Mộc : Công việc nhiều vất vả nhưng được bù đắp lại bằng vật chất, chỉ đủ cơm áo.

– KHÔN hành Thổ : Phúc lộc trùng trùng, chức vị thăng tiến, buôn bán mua một bán mười.

– LY hành Hỏa : Được bù đắp những công việc đã làm, tài lộc gia trạch cũng hơn mọi người.

– ĐOÀI hành Kim : bôn ba không qua thời vận vì lúc cát lúc hung, lao đao nhiều nhưng chẳng được bao nhiêu.

Cung Mệnh Là Gì? Bản Mệnh Là Gì? Cung Mệnh Của Các Tuổi

Cung Mệnh có ảnh hưởng mạnh và mang tính chủ đạo từ khi mới sinh đến ngoài 30 tuổi, thời gian này cung Thân cũng đã ảnh hưởng rồi nhưng thụ động. Sau 30 tuổi người ta bước vào giai đoạn thành thục,các sao tọa thủ cung Mệnh ảnh hưởng yếu đi trở thành thụ động, các sao tọa thủ cung Thân ảnh hưởng mạnh lên mang tính chủ đạo, chi phối mọi hành vi và phát triển của con người từ lúc đó đến lúc chết. Theo ý kiến các chuyên gia phong thủy: Từ lúc lọt lòng mẹ cho đến năm 30 tuổi, phải căn cứ vào cung Mệnh để xem xét một sự tốt xấu và luận đoán vận hạn, còn từ 30 tuổi trở đi, phải căn cứ vào cung Thân, nhưng dù sao cũng vẫn phải chú ý đến cung Mệnh.

2, Bản mệnh là gì? Mối quan hệ giữa cung mệnh – bản mệnh

Các chuyên gia tại Sim Hợp Tuổi và chuyên gia phong thủy tử vi tại Việt Nam cho rằng: Mỗi người có một Bản Mệnh. Bản Mệnh là đặc tính thể chất cơ bản của con người đó. Bản mệnh gồm 2 yếu tố dính liền nhau:

– Nguyên thể của hành của Bản Mệnh.

Về nguyên thể của hành Bản Mệnh, có thất cả 30 loại cho 5 hành, mỗi hành có 6 loại:

– Sa trung kim (vàng trong cát)

– Hải trung kim (vàng dưới biển)

– Bạch lạp kim (vàng trong nến trắng)

– Đại khê thủy (nước dưới khe lớn)

– Giản hạ thủy (nước dưới khe)

– Trường lưu thủy (nước chảy thành giòng lớn)

– Đại lâm mộc (cây trong rừng lớn)

– Tùng bách mộc (gỗ cây tùng bách)

– Phú đăng hỏa (lửa ngọn đèn)

– Lộ trung hỏa (lửa trong lò)

– Tích lịch hỏa (lửa sấm sét)

– Đại dịch thổ (đất thuộc 1 khu lớn)

– Lộ bàng thổ (đất giữa đường)

– Thành đầu thổ (đất trên mặt thành)

Sự phân loại chi tiết này khả dĩ giúp xác định nguyên thể, đặc tính thể chất của hành Bản Mệnh, từ đó có thể suy diễn được sự phong phú hay bất túc của Bản Mệnh, tác hóa giữa Bản Mệnh khác nhau, ảnh hưởng hỗ tương giữa Mệnh và Cục, tương quan giữa các cung an Mệnh và Bản Mệnh, giữa chính diệu thủ Mệnh và Bản Mệnh.

Tuy nhiên, dù tế phân, nhưng nguyên thể của Bản Mệnh không được sách vở mô tả rõ ràng các đặc tính nhất là tác hóa với nguyên thể khác. Sự sơ sót này khiến cho mỗi người hiểu đặc tính và tác dụng của mỗi nguyên thể một khác, tạo ra nhiều ngộ nhận và tranh luận nan giải. Đây là một lãnh vực các nhà khảo cứu Tử – Vi cần khai triển cho phong phú và cụ thể.

Cách tính cung mệnh theo tuổi , theo năm sinh được chia ra của nữ giới riêng và của nam giới riêng

Cách tính cung mệnh của người Ta lấy năm sinh âm lịch ( tính theo tiết lập xuân, nếu sinh trước tiết lập xuân thì tính năm trước, nếu sinh sau tiết lâp xuân thì tính là năm sau) công lại lấy tổng rồi chia cho 9 và lấy số dư ứng vào trong bảng dưới để biết mình là cung mệnh gì. Nếu chia hết cho 9 thì lấy luôn là số 9. trong trường hợp cộng năm sinh mà chưa đủ 9 thì lấy luôn số đó.

Ví dụ: sinh năm 1982. ta lấy 1+9+8+2 = 20: 9 = 2 dư 2. Nếu là con trai thì ta tra vào bảng số 2 sẽ được cung ly. Nếu là con gái thì ta tra vào bảng nữ, ta sẽ được cung càn. Ví dụ: sinh năm 1989. Ta lấy 1+ 9+8+9 = 27 : 9 = 3. Vì chia hết nên ta lấy luôn số 9. Nếu là nam giới thì ta ứng vào bảng nam, được cung mệnh khôn. Nếu là nữ thì ta ứng vào bảng nữ, được cung tốn.

Bản Chất Của Những Người Tuổi Mẹo Theo Phong Thủy Đông Phương

Tuổi Mão chân tướng lại là con Thỏ, muốn sửa lại cũng chẳng được. Rụt rè mà lại thu hút người khác.

Gặp tuổi này là bạn cứ thích nâng niu chiều chuộng giống như một con gấu bông của bạn.

Cho nên đừng ngạc nhiên khi thấy người tuổi Mèo được nhiều người biết đến và bạn bè, bà con, dính líu không kể xiết.

Bản tính thương người khiến tuổi này khi yêu ai thì yêu người ấy như chính bản thân mình vậy.

Khi đã mê ai rồi thì cảm xúc lấn lướt mọi chuyện, đâm ra lý tưởng hóa mối quan hệ, nên thiệt thòi về mặt tình cảm, vì mình đã đi xa rời hiện thực.

Nhưng tuổi Mèo bảo: “Có mất mát gì đâu!”.

Khi thua trận phải rút quân, tuổi Mèo biết tập họp cơ sở bạn bè nòng cốt, điều chỉnh lối sống, và phục hồi lại như thường.

Người tuổi Mèo rất xúc cảm nếu không muốn nói là yếu lòng, nên cần phải có một chỗ dựa vững chắc mới sống được. Mất sự an ủi đó và gặp ngang trái là họ phát khóc ngay, hay ngã bệnh.

Không cần phải nói, tuổi Mèo không ưa cãi cọ, thường nhẫn nhục cho qua. Tuổi này cũng tỏ ra tiêu cực và bất động – cốt để che dấu tâm sự bất an, hay oan ức của mình.

Coi vậy chớ, bảo Tuổi này thay đổi chuyện gì theo ý bạn khuyên thì không được đâu, vì trời sinh tuổi này có nhịp sống và suy nghĩ khác người, tự họ sẽ tìm đường giải quyết.

Niềm hạnh phúc của Tuổi này là được vui chơi trong chính căn nhà trang thiết bị đầy đủ theo ý họ.

Thể diện cũng quan trọng đối với Tuổi này. Ðó là lý do khiến họ lúc nào cũng trông nổi bật hơn người khác. Bỏ tiền chơi sang? Không sai!

Tuy nhiên, điều tuổi Mèo cần nhất là biết đánh giá mình. Biết mình không đến nỗi tệ thì đâu còn lo âu gì nữa.

Biết người biết ta cộng thêm một ít can đảm nữa là đạt tới thành công.Nguồn: Phong Thủy Tổng Hợp

Cùng Danh Mục: Liên Quan Khác

Tuổi Mẹo sinh vào những ngày nào thì tốt phong thủy nhất?

Tuổi Mẹo sinh vào những giờ nào thì tốt phong thủy nhất?

Tổng hợp lá số tử vi trọn đời cho tuổi Mẹo : Ất Mẹo , Đinh Mẹo , Kỷ Mẹo , Tân Mẹo , Quý Mẹo

Bản chất – sự nghiệp – sức khỏe và đường tình duyên của người tuổi Mẹo

Xem lá số tử vi năm 2023 Ất Mùi tuổi Mẹo: Ất Mẹo, Đinh Mẹo, Kỷ Mẹo, Tân Mẹo, Quý Mẹo

Xem lá số tử vi năm 2014 Giáp Ngọ tuổi Mẹo: Ất Mẹo, Đinh Mẹo, Quý Mẹo, Tân Mẹo

Xem lá số tử vi trọn đời cho Nữ tuổi Tân Mẹo (1951, 2011, 2071)

Xem lá số tử vi trọn đời cho Nam tuổi Tân Mẹo (1951, 2011, 2071)

Xem lá số tử vi trọn đời cho Nữ tuổi Quý Mẹo (1903, 1963, 2023)

Xem lá số tử vi trọn đời cho Nam tuổi Quý Mẹo (1903, 1963, 2023)

Xem lá số tử vi trọn đời cho Nữ tuổi Kỷ Mẹo (1939, 1999, 2059)

Xem lá số tử vi trọn đời cho Nam tuổi Kỷ Mẹo (1939, 1999, 2059)

Xem lá số tử vi trọn đời cho Nữ tuổi Đinh Mẹo (1927, 1987, 2047)

Xem lá số tử vi trọn đời cho Nam tuổi Đinh Mẹo (1927, 1987, 2047)

Xem lá số tử vi trọn đời cho Nữ tuổi Ất Mẹo (1915, 1975, 2035)

Cập nhật thông tin chi tiết về Bản Chất Của Bói Toán Là Gì ? trên website Hartford-institute.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!