3 Bài Văn Lòng Yêu Nước Của Trần Quốc Tuấn Qua Văn Bản Hịch Tướng Sĩ

Đề bài: Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn qua văn bản Hịch tướng sĩ

3 bài văn mẫu Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn qua văn bản Hịch tướng sĩ

1. Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn qua văn bản Hịch tướng sĩ, mẫu số 1:

Trần Quốc Tuấn tức hiệu là Hưng Đạo Vương là một danh tướng kiệt xuất, văn võ song toàn, có công lớn với dân tộc ta. Vào năm 1285, trước cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ hai, ông đã viết “Hịch tướng sĩ” nhằm khích lệ, kêu gọi các tướng sĩ đứng lên đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Qua bài hịch, ta thấy rõ lòng yêu nước nồng nàn, tha thiết của vị chủ tướng tài ba.

Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn qua bài hịch được thể hiện qua những cung bậc tình cảm, cảm xúc khác nhau.

Ngay từ câu văn đầu tiên, Trần Quốc Tuấn đã đưa ra các tấm gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách Trung Quốc để khơi gợi lòng trung quân ái quốc của các tướng sĩ. Trong đó có những người là tướng lĩnh, là bề tôi gần như Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng; lại có cả những người bình thường, những kẻ bề tôi xa như Thần Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh. Cách nêu gương như vậy thật toàn diện! Nó có tác dụng khích lệ được nhiều đối tượng, ai cũng có thể làm người trung nghĩa “lưu danh sử sách, cùng trời đất, muôn đời bất hủ”. Lịch sử nước Nam không thiếu anh hùng nhưng trong bài hịch, Trần Quốc Tuấn chỉ nêu những tấm gương trong Bắc sử. Điều đó thể hiện một cái nhìn rất phóng khoáng của ông: không cần phân biệt dân tộc, tất cả những người trung nghĩa dám xả thân vì chủ, vì vua, vì nước đều đáng được ca ngợi.

Sau khi nêu những tấm gương sử sách, Trần Quốc Tuấn quay lại với thực tế “thời loạn lạc”, buổi “gian nan của đất nước” cũng là lúc lòng yêu nước của ông thể hiện cao độ. Đọc tác phẩm, ta cảm nhận được những lời lẽ đanh thép, vạch trần tố cáo bộ mặt của kẻ thù. Với bản chất ngang tàn, hống hách chúng không chỉ coi thường dân ta mà còn xỉ nhục, lăng mạ triều điều từ vua đến quan: “đi lại nghênh ngang ngoài đường”, “sỉ mắng triều đình”, “bắt nạt tề phụ”, “đòi ngọc lụa”, “thu ngọc vàng”, “vét của kho có hạn”. Nỗi căm giận và lòng khinh bỉ của Hưng Đạo Vương thể hiện rõ trong những ẩn dụ chỉ “sứ giặc” như “lưỡi cú diều”,”thân dê chó”, “hổ đói”; ông đặt chúng ngang với lũ súc sinh, không còn liêm sỉ. Từ đó Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra nỗi nhục quốc thể bị chà đạp cũng như đánh vào lòng tự ái dân tộc và khơi sâu nỗi căm thù giặc ở các tướng sĩ.

Bài văn Phân tích Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn qua văn bản Hịch tướng sĩ

Trước tội ác của kẻ thù và nỗi nhục của đất nước, Trần Quốc Tuấn đã bày tỏ nỗi lòng của mình “Ta thường tới bữa quên ăn; nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa” và tột cùng là “chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Những hành động mạnh mẽ ấy không chỉ thể hiện sự căm thù giặc mà còn là ý chí quyết chiến quyết thắng, một phen sống chết với quân thù. Cao hơn nữa, ông còn nguyện hy sinh thân mình cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập cho Tổ quốc: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này có gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Tất cả các trạng thái tâm lí, các khía cạnh tình cảm trong ông đều được đẩy tới cực điểm! Đoạn văn như trào ra từ trái tim thiết tha yêu nước và sôi sục căm thù như được viết nên từ máu và nước mắt. Để rồi nó trở thành nỗi ám ảnh thường trực ngày cũng như đêm; dồn nén thì khát khao hành động giết giặc, tình yêu nước đốt cháy lên lòng quyết tâm hi sinh để rửa mối nhục cho đất nước. Câu văn chính luận mà giàu cảm xúc và hình ảnh đã khắc họa được hình ảnh người anh hùng yêu nước, tác động sâu sắc vào tình cảm người tướng sĩ.

Chưa dừng lại ở đó, Trần Quốc Tuấn còn luôn quan tâm, sẻ chia, theo dõi những tướng sĩ dưới quyền khi xông pha trận bão cũng như khi thái bình: “không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng,…”. Từng đây thôi cũng đủ hiểu ông là một vị tướng như thế nào! Trên cơ sở, mối quan hệ đầy ân tình ấy, Trần Quốc Tuấn vừa chân tình chỉ bảo vừa phê phán nghiêm khắc thái độ, hành động sai trái của các tướng sĩ vô trách nhiệm trước vận mệnh nước, lơ là cảnh giác trước kẻ thù “nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức; nghe nhạc thái dương để đãi yến ngụy sự mà không biết căm”. Cái sai tiếp theo là hành động hưởng lạc: ham mê chọi gà, đánh bạc, vui thú vườn ruộng, lo làm giàu, quyết luyến vợ con,… Đồng thời ông cũng chỉ rõ hậu quả của tất cả những việc đó: tất cả sẽ mất hết, từ cái chung đến cái riêng, từ chủ soái đến tướng sĩ hay thiêng liêng hơn là danh tiếng, xã tắc tổ tông, mộ phần cha mẹ… Sự phê phán nghiêm khắc của Trần Quốc Tuấn bắt nguồn sâu xa từ lòng yêu thương chân thành với tướng sĩ và từ tình yêu Tổ quốc thiết tha cháy bỏng của ông. Tất cả là nhằm để đánh bại những tư tưởng dao động, bàng quan giành thế áp đảo cho tinh thần quyết chiến quyết thắng và đó cũng chính là tư tưởng chủ đạo của bài Hịch, là thước đo cao nhất, tập trung nhất tư tưởng yêu nước trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.

Cuối cùng ông nêu ra hai viễn cảnh: nước còn và nước mất, họa và phúc. Họa có thể đến nơi mà phúc như một thứ nhỡn tiền, nhìn thấy, chỉ có điều chúng khác nhau một trời một vực. Điều quyết định nằm ở thái độ, trong sự dứt khoát chọn con đường: ăn chơi hay gác lại thú ăn chơi? Nhận thức được phải trái, đúng sai nhưng thước đo cuối cùng phải là hành động. Hành động ấy rốt cuộc là “chuyên tập sách này” – cuốn Binh thư yếu lược hay là khinh bỉ nó. Chăm chỉ học hành, tập luyện “mới chỉ là đạo thần chủ” còn nếu không, nếu trái lời dạy bảo của người uy quyền thống lĩnh toàn quân “tức là kẻ nghịch thù”. Một cách lập luận tuyệt vời của Trần Quốc Tuấn! Những lời văn đó đã tác động vào tình cảm ân nghĩa thủy chung của các tướng sĩ, động viên những người còn do dự hãy chỉnh tề đứng vào hàng ngũ của những người quyết chiến quyết thắng.

Lịch sử đã chứng minh, ngay sau khi bài Hịch được công bố, cả đêm hôm đó ba quân tướng sĩ không ngủ, họ mài gươm cho thật sắc, họ thích vào cánh tay hai chữ “Sát Thát”, họ hoa chân múa tay đòi gấp gấp lên đường đánh giặc, trong tim họ như có một ngọn lửa đang rừng rực cháy.

“Hịch tướng sĩ ” của Trần Quốc Tuấn là một áng văn bất hủ. Nó không chỉ là tác phẩm kết tinh lòng yêu nước của dân tộc Đại Việt thời Trần mà còn là một mẫu mực về văn nghị luận trung đại: sự kết hợp giữa lập luận chặt chẽ, sắc bén với lời văn giàu hình tượng và cảm xúc, có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Trần Quốc Tuấn cùng với áng văn Thiên Cổ Hùng Văn sẽ mãi mãi trường tồn với thời gian.

2. Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn qua văn bản Hịch tướng sĩ, mẫu số 2:

Trần Quốc Tuấn (1231 – 1300) – người đã được vua Trần giao cho thống lĩnh quân đội, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên thắng lợi vẻ vang. Người nổi tiếng là biết trọng kẻ sĩ thu phục nhân tài. Trần Quốc Tuấn là một người anh hùng dân tộc, nhà quân sự thiên tài, lòng yêu nước của ông nước thể hiện rõ qua văn bản “Hịch tướng sĩ”, văn bản khích lệ tướng sĩ học tập cuốn “Binh thư yếu lược” do ông biên soạn.

Trước sự lâm nguy của đất nước, lòng yêu nước thiết tha của vị chủ soái Trần Quốc Tuấn được thể hiện ở lòng căm thù sục sôi quân cướp nước. Ta hãy nghe ông kể tội ác của giặc: “Ngó thấy sự giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, vét của kho có hạn, thật khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai hoạ về sau!”. Tác giả gọi giặc là “cú diều, dê chó, hổ đói” không chỉ vạch trần sự tham lam, độc ác mà còn vạch rõ dã tâm xâm lược của giặc; thể hiện sự khinh bỉ, căm ghét tột độ. Không chỉ kể tội ác của giặc mà Trần Quốc Tuấn còn bày tỏ nỗi đau xót trước nỗi nhục của quốc thể, nỗi đau đớn xót xa. Đó là biểu hiện của sự sẵn sàng xả thân để rửa nhục cho nước, để bảo vệ nền độc lập của dân tộc, khát vọng nước xả thân cho nước: “Chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”.

Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn không chỉ thể hiện lòng căm thù sục sôi quân cướp nước mà còn thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng, quyết xả thân cho độc lập dân tộc. Ông vạch ra hai con đường chính – và cũng là một con đường sống chết để thuyết phục tướng sĩ. Trần Quốc Tuấn biểu lộ một thái độ dứt khoát: hoặc là địch hoặc là ta, không có vị trí chông chênh cho những kẻ bàng quan trước thời cuộc. “Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay mà không chịu thua giặc. Nếu vậy rồi đây sau khi giặc đã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa?”, đó là lời động viên tới mức cao nhất ý chí và quyết tâm chiến đấu của mọi người.

Cảm nhận Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn qua văn bản Hịch tướng sĩ

Tình yêu thương chân thành, tha thiết dành cho tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đều được xuất phát từ lòng nhân hậu từ lòng yêu nước. Với quân sĩ dưới quyền, Trần Quốc Tuấn luôn đối xử như với con mình, với những người quen: “Các ngươi cùng ta coi giữ binh quyển đã lâu ngày, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm; quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng; đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười”. Đó là mối ân tình giữa chủ và tướng nhằm khích lệ ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người đối với lẽ vua tôi cũng như tình cốt nhục. Chính tình yêu thương tướng sĩ chân thành tha thiết mà Trần Quốc Tuấn đã phê phán những biểu hiện sai, đồng thời chỉ ra cho tướng sĩ những hành động đúng nên theo, nên làm. Những hành động này đều xuất phát từ ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Đó là sự băn khoăn trước tình trạng tướng sĩ không biết lo lắng cho đất nước: không thấy lo, thấy thẹn khi nhà vua và đất nước bị kẻ thù làm nhục; chỉ biết vui thú tiêu khiển, lo làm giàu, ham săn bắn, thích rượu ngon, mê tiếng hát,… Nguy cơ thất bại rất lớn khi có giặc Mông Thái tràn sang: “cựa gà trống không thể đâm thùng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm, vườn nhiều, tấm thân quí nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu; việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ không đuổi được quân thù, chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bây giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào!”. Chính lòng yêu nước mà Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra cho tướng sĩ những hành động nên làm: “Nay ta bảo thật các ngươi: nên nhớ câu “đặt mồi lửa vào giữa đông củi là nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” “làm run sợ, huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên”.

Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta nói chung và Trần Quốc Tuấn nói riêng trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Nó được thể hiện qua lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược và những tình cảm dành cho tướng sĩ dưới trướng.

3. Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn qua văn bản Hịch tướng sĩ, mẫu số 3:

Hịch tướng sĩ từ xưa đã được xem là một “thiên cổ hùng văn” bất hủ của dân tộc. Bài hịch là sự kết tinh sâu sắc của truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, là kết tinh của ý chí và sức mạnh quật cường của dân tộc qua mấy trăm năm lịch sử. Qua bài hịch, Trần Quốc Tuấn đã thể hiện mạnh mẽ lòng yêu nước thiết tha và căm thù giặc sâu sắc của vị chủ tướng một lòng vì nước vì dân.

Thành công đầu tiên của Hịch tướng sĩ là chất giọng hùng hồn, thuyết phục hiếm có. Chất hùng văn của Hịch tướng sĩ được tạo nên từ nghệ thuật trữ tình hùng biện và tình cảm mãnh liệt, nồng cháy trong tim người anh hùng dân tộc. Đó là ngọn lửa của tình yêu nước thiết tha và ý chí quyết tâm chống giặc cứu nước. Tình cảm sục sôi và nhiệt tình yêu nước cháy bỏng, ý chí quyết chiến quyết thắng giặc thù làm nên chất nhân văn cao đẹp của bài hịch.

Mở đầu bài hịch, vị chủ tướng nêu cao gương sáng các anh hùng nghĩa sĩ đã quên mình vì chúa (Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh) hay anh dũng chống giặc hi sinh vì nước (Nguyễn Văn Lập, Xích Tu Tư). Đó là những tấm gương tiêu biểu, được lưu truyền trong nhân gian, không ai mà không biết nhưng dưới lời văn của Trần Quốc Tuấn lại được nâng cao lên nhiều lần, trở thành điều tâm niệm mà mỗi tướng sĩ nên có. Tình yêu nước theo vị chủ tường, trước hết là phải biết sống anh hùng và lập nên những chiến công hiển hách, lưu danh thiên cổ. Lời văn ngắn gọn, xúc tích nhưng đã đánh động được nỗi lòng của các tướng sĩ, khiến họ biết tự nhìn lại mình.

Tình yêu nước của Trần Quốc Tuấn được bộc lộ rõ ràng hơn khi ông nói về sự ngang ngược và tội ác của quân giặc. Ông đã lột tả bản chất tham lam, hống hách, tàn bạo của đoàn quân xâm lược: Đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tề phụ, đòi ngọc lụa, thu bạc vàng. Thái độ của Trần Quốc Tuấn vừa tủi nhục, xót xa vừa căm giận, khinh bỉ, coi chúng như những loài cầm thú: cú diều, dê chó, hổ đói, lột rõ bản chất tham lam, tàn bạo của chúng.

Lòng yêu nước của Trần Quốc Tuấn qua văn bản Hịch tướng sĩ, văn mẫu tuyển chọn

Trần Quốc Tuấn đã thấu suốt dã tâm của giặc, nhận thức rõ hiểm họa của Tổ quốc, nguy cơ của sự bại vong. Lời lẽ chân tình, thống thiết, thấu tận nhân tâm khiến ta càng kính trọng hơn người anh hùng đã hết lòng vì nước quên mình. Bởi lo thế giặc mạnh, quân giặc hung bạo, bất nhân còn thế nước lại yếu, tướng sĩ vô tâm, cái nguy cơ mất nước hiện hữu trước mắt khiến cho vị chủ tướng “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”, ngày đêm suy nghĩ cách phá giặc bảo vệ non sông. Trong khi, quân giặc đang giày xéo trên quê hương, muôn dân đang bị chúng cướp bóc, sát hại thảm thiết. Nỗi căm tức dâng lên tột cùng, uất nghẹn: “căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Vì đất nước “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa”, ông cũng vui lòng.

Với bút pháp khoa trương, tính chất ước lệ, giọng văn nghẹn ngào, thống thiết, hào sảng, phù hợp với ngôn ngữ hùng biện của thể hịch văn, bài hịch có sức ngân vang lớn. Đoạn văn đã thể hiện đậm nét trạng thái sục sôi, hận thù bỏng rát của một trái tim vĩ đại, chất chứa cảm xúc lớn với vận mệnh đất nước, sự tồn vong của dân tộc, số phận của nhân dân. Tất cả những trạng thái cảm xúc ấy đều được đẩy tới cực điểm. Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam, lòng căm thù giặc và nỗi đau xót trước vận mệnh dân tộc lại được biểu hiện sâu sắc, mãnh liệt và xúc động lòng người đến thế.

Từ căm thù cháy bỏng đến hành động giết giặc cứu nước là tất yếu và phải được đặt lên hàng đầu, thà chết chứ không chịu khuất phục. Đó là khí phách của một dân tộc anh hùng. Hơn ai hết, Trần Quốc Tuấn hiểu rõ ràng ý chí quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng xả thân vì nước của vị thống soái toàn quân là yếu tố rất quan trọng, nhưng chưa đủ làm nên chiến thắng, cần có một sức mạnh tổng hợp. Sức mạnh ấy phải được tạo nên từ sự đồng lòng nhất chí, từ ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc thù của cả dân tộc.

Trong khi tướng sĩ vẫn còn đang mãi lo cho bản thân, ham mê lạc thú mà quên đi nhiệm vụ bảo vệ nước nhà. Ông đã rất đau xót và nghiêm khắc khi nhắc nhở tướng lĩnh của mình. Đầu tiên ông nhắc lại mối ân tình của mình với tướng sĩ: không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa. Ông còn nhắc lại mối giao hòa chủ tướng thắm thiết như phụ tử cùng sống chết trong mặc, cùng vui vẻ khi bình yên. Ông cũng nghiêm khắc chỉ trích lói sống thờ ơ, hèn nhục của tướng sĩ khi quân giặc giày xéo quê hương: thấy chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn…, không biết căm,…

Mỗi thú vui của tướng sĩ không có gì là xấu nhưng nó không hợp với thời cuộc. Đất nước đang trong nước sôi lửa bỏng, vận mệnh dân tộc đang lâm nguy, kẻ thù thiện chiến và hùng mạnh, mà tướng sĩ vẫn thờ ơ tức là tự đẩy mình vào diệt vong, muôn đời chịu nhục. Bằng lập luận chặt chẽ, lời lẽ sắc bén, sử dụng nghệ thuật đối lập, cấu trúc câu trùng điệp tạo khí thế hùng hồn, từng lời từng chữ như chảy ra từ trong tim tha thiết vô cùng, Trần Quốc Tuấn đã thức tỉnh toàn quân cầm gươm chống giặc. Đó không phải là một mệnh lệnh cứng nhắc mà là một lời tâm tình rưng rưng nước mắt. Tình yêu thương chân thành, tha thiết dành cho tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn đều được xuất phát từ trái tim nhân hậu, từ lòng yêu nước lớn lao.

Không những vạch rõ yếu kém của tướng sĩ, ông còn chỉ ra cái nguy cơ dẫn đến thảm kịch của đất nước, của gia đình, của cá nhân và cách để hóa giải cái nguy cơ ấy. Với bản lĩnh của một vị tướng kiệt xuất có tầm nhìn xa trông rộng và niềm tin tất thắng của dân tộc, ông hoàn toàn tin tưởng vào thắng lợi nếu mỗi binh sĩ đều hết lòng xả thân chống giặc cứu nước. Đó cũng là một lời hứa đinh ninh trước trời đất của vị chủ tướng để huy động toàn bộ sức mạnh dân tộc trong cuộc quyết chiến với kẻ thù xâm lược.

Hịch tướng sĩ của Trần Quốc tuấn đã phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc, tinh thần quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược của dân tộc ta. Hịch tướng sĩ là một áng văn nghị luận mẫu mực, bất hủ với kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc sảo, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng phong phú, sinh động và lời văn khi hùng hồn đanh thép, khi thống thiết chân thành có sức lôi cuốn và sức thuyết phục mạnh mẽ. Với bài hịch ngắn gọn, xúc tích, Trần Quốc Tuấn đã viết nên một bản hùng ca vang mãi đến muôn đời.

Chi tiết nội dung phần Soạn bài Hịch tương sĩ đã được hướng dẫn để các em có sự chuẩn bị tốt cho bài học này.

https://thuthuat.taimienphi.vn/long-yeu-nuoc-cua-tran-quoc-tuan-qua-van-ban-hich-tuong-si-40715n.aspx

Luận Bàn Về Tướng Đàn Ông Da Trắng Môi Đỏ

Các loại tướng môi đàn ông Đàn ông môi mỏng Đàn ông môi lệch

Môi lệch thì lòng cũng sẽ không ngay thẳng. Lời nói của tướng môi đàn ông này cũng không thể tin tưởng được. Môi dưới dày, có nốt ruồi là người vô cùng coi trọng chuyện dục vọng, xác thịt, hay nói dối và dễ bắt cá 2 tay.

Đàn ông môi dày

Đàn ông có miệng cong lên trên giống như hình vòng cung, môi đầy đặn, sắc hồng nhuận là người thông minh, rất thành công nếu đi theo sự nghiệp nghiên cứu khoa học hay phát minh sáng chế. Tướng môi đàn ông này thường có tính tình khảng khái, hào phóng, có ý chí mạnh mẽ. Cuộc đời an nhàn, phú quý và phúc thọ tới một cách tự nhiên.

Đàn ông da trắng môi đỏ

Không chỉ riêng đàn ông mà ngay cả phái đẹp đều muốn sở hữu đôi môi đỏ cho nụ cười luôn tươi tắn, rạng rỡ. Tuy nhiên nhiều bạn gái không biết đàn ông da trắng môi đỏ là người như thế nào, có đáng tin tưởng hay không?

Thông thường, những người da trắng luôn sở hữu đôi môi hồng hào do sắc tố da quy định, những người da nâu thì môi sẽ hơi sậm màu hoặc thâm hơn. Chính vì vậy, đây là tình trạng hoàn toàn bình thường, không ảnh hưởng gì đến tính cách của các chàng trai.

Đàn ông da trắng môi đỏ nói lên điều gì? Nhiều người quan niệm, đàn ông có một đôi môi đầy đặn, tươi và thậm chí hơi ướt là một biểu hiện của sinh lực tràn trề. Tuy nhiên, đây là nhận định hoàn toàn không có cơ sở vì thể lực của mỗi người phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe, chế độ ăn uống, sinh hoạt.

Tại sao có câu “Đàn ông môi đỏ bạc tình như vôi”?

Những chàng trai da trắng môi đỏ hay đàn ông môi đỏ luôn được phái đẹp phong cho danh hiệu là lãng tử đa tình. Đó không phải là bản chất con người của họ mà vì với hình tượng điển trai ấy, nụ cười với đôi môi son đỏ luôn khiến các cô gái đổ gục, xao xuyến ngày đêm. Đào hoa là thế nhưng họ đâu thể chấp nhận hết tình cảm của tất cả các cô gái, nếu vậy lại mang tiếng sở khanh. Thế nên, đàn ông da trắng môi đỏ đã làm tan nát biết bao trái tim người đẹp, đành chấp nhận mang tiếng bạc tình.

Những thuật tướng số thực ra chỉ là quan niệm, suy đoán mang tính chất tâm linh và đến nay vẫn chưa có cơ sở khoa học nào để chứng minh tính đúng đắn của vấn đề này. Thế nên, chúng ta cũng không nên nhìn về ngoại hình mà đánh giá về đạo đức cũng như nhân cách của mỗi người. Muốn nhìn nhận về một ai đó một cách chính xác, bạn cần phải tiếp xúc với người đó và quan sát cách họ đối xử với mọi người. Cho nên, đàn ông môi đỏ bạc tình như vôi là quan niệm sai và dễ làm mất đi thiện cảm của các chàng trai trong mắt người khác.

Xem Vận Mệnh Qua Đường Chỉ Tay: Đường Chỉ Tay Định Cư Nước Ngoài Là Gì?

Theo nhân tướng học thì con người sinh ra vốn sở hữu cho mình những đường chỉ tay khác nhau. Dựa vào đường chỉ tay này bạn có thể dự đoán phần nào nhân cách, vận mệnh ở tương lai tốt xấu ra sao.

Mỗi người có những đường chỉ tay mờ nhạt rõ ràng khác nhau, thường trong lòng bàn tay xuất hiện 3 đường chỉ tay chính:

+ Đường sinh đạo hay còn gọi là đường số mệnh, sinh mệnh. Tùy theo hình dạng và độ mờ nhạt của đường sinh đạo mà vận mệnh tương lai thể hiện tốt hay xấu.

+ Đường trí đạo hay còn gọi là đường trí tuệ, đường lý tính. Người nào có đường chỉ tay trí đạo càng rõ ràng và chi tiết thì tài năng vượt bậc, dễ dàng gặt lấy thành công trong cuộc sống tương lai.

+ Đường tâm đạo hay còn gọi là đường tình cảm, đường tình duyên. Đường chỉ tay càng sâu đậm thì đường tình yêu càng may mắn, luôn được mọi người xung quanh yêu thương và quý mến.

Bên cạnh 3 đường chỉ tay chính thì trong lòng bàn tay còn xuất hiện những đường chỉ tay khác nhau như đường sức khỏe, hôn nhân, con cái, ….

Đường chỉ tay xuất ngoại nằm ở đâu?

Đầu tiên bạn xòe bàn tay ra, con gái thì xem tay phải, con trai thì xem tay trái. Tại gò Thái Dương Âm (tức ngón út đi xuống đến mu bàn tay), bạn sẽ thấy một hoặc nhiều đường chỉ song song nằm ở rìa cạnh bàn tay.

Muốn nhìn kỹ hơn, bạn nắm bàn tay lại, và nhìn từ ngón út trở xuống dưới. Chỉ tay xuất ngoại có thể nằm bên dưới đường tình duyên nhưng thông thường nó nằm ở dưới đường Trí Đạo.

Mỗi bàn tay đều khác nhau, nhưng nói chung đó là các đường chạy song song nằm vắt ngang cạnh bàn tay của bạn từ ngón út chĩa xuống, trong khu vực gò Thái Âm

Có thể nó nằm ngay gần cổ tay hay cuối cạnh bàn tay, nó sẽ rõ dần theo thời gian.

Đường đi lên từ cổ tay (D)

Đường bắt đầu từ đường vận mệnh (B)

Đường đi lên từ đường vận mệnh (A)

Đường đi song song trong gò thái âm (C)

Bạn sẽ có chuyến đi du lịch nước ngoài (E)

A1: Các đường song song dưới ngón tay út là các đường xuất ngoại. Nếu bạn có thêm một hay vài nhánh tẻ ra thì bạn sẽ định cư ở nước ngoài.

A2: Đường dài từ rìa lòng bàn tay chạm vào đường thằng, hay các đường dài không dứt khúc ở cổ tay, có nghĩa là bạn có nhiều tài lộc trong chuyến đi xuất ngoại này.

A3: Bạn sẽ gặp phải sự cố trong chuyến đi xuất ngoại này.

A4: Nếu bạn có các dấu “X” trong bàn tay tức là bạn sẽ gặp chắc trở trong chuyến xuất ngoại này.

A5: Đường chỉ tay từ rìa bàn tay, chạm vào vòng tròn giống số 0 nghĩa là bạn sẽ mất mát nhiều trong chuyến xuất ngoại này.

Xem Tướng Qua Bàn Chân

Trong lòng bàn chân có nốt ruồi đen: Nếu trong lòng bàn chân có nốt ruồi đen, bạn nên vui mừng vì đó là dấu hiệu đáng mừng. Trong nhân tướng học, nốt ruồi đen tượng trưng cho tài lộc, phú quý và món ngon. Nốt ruồi càng to càng bóng càng chứng tỏ khả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói

Trong lòng bàn chân có nốt ruồi đen: Nếu trong lòng bàn chân có nốt ruồi đen, bạn nên vui mừng vì đó là dấu hiệu đáng mừng. Trong nhân tướng học, nốt ruồi đen tượng trưng cho tài lộc, phú quý và món ngon. Nốt ruồi càng to càng bóng càng chứng tỏ khả năng tài chính của chủ nhân rất ưu việt.

Lòng bàn chân lõm sâu: Những người có lòng bàn chân lõm sâu thường hưởng phúc lớn. Không chỉ kinh tế của gia đình, ngay bản thân bạn cũng có tiềm lực tài chính mạnh tới mức không ai sánh bằng. Tóm lại, người sở hữu tướng chân này sẽ vượng phát cả tài lẫn phúc.

Chân nhỏ mà đầy đặn: Những người sở hữu bàn chân nhỏ nhắn nhưng đầy đặn, đặc biệt là phụ nữ, thường được xem là người có bàn chân quý nhân. Cơ hội đến với bạn quả rất tuyệt vời. Nhờ thường xuyên được quý nhân phù trợ, cuộc sống của những người sở hữu đôi chân xinh xắn này sẽ rất tốt đẹp: tiền tài dư dả, cơm ngon áo đẹp… Bàn chân có nốt ruồi son: Người có nốt ruồi son mọc ở bàn chân là người có tướng vượng nhân, mệnh phú quý. Tướng chân này không chỉ tốt cho bản thân, mà còn đem lại may mắn cho người thân của bạn.

Móng chân tròn, bóng nhẵn: Những người có móng chân hình tròn, trơn bóng là người có mệnh phu nhân. Không những được hưởng tiền bạc từ chồng, bạn còn có nhân công dưới quyền để sai khiến. Những người có móng chân mọc cụp xuống dưới lại càng có số hưởng tiền.

Móng chân màu hồng: Màu sắc móng chân không chỉ biểu hiện tình trạng sức khỏe, mà còn dự báo vận mệnh của bạn. Những người có móng chân màu trắng sữa thường có vận mệnh ổn định, bình yên. Móng chân màu xám báo hiệu cuộc đời bạn sẽ gặp nhiều trắc trở, đau khổ. Riêng móng chân có sắc hồng hào là biểu hiện đáng mừng của mệnh phú quý. Ngón chân không có đường vân: Nếu mười ngón chân không có đường vân, chứng tỏ người này khá nghèo hèn, dễ bị tán tài. Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (XemTuong.net)

Xem Tướng Tai, Xem Tướng Qua Đôi Tai

Đôi tai cho biết vận mệnh, tính cách… của một đời người

– Vị trí của tai được phán đoán cao thấp so với đôi mắt, tai cao là tai có điểm cao nhất trên vành tai cao hơn so với măt, tai thấp thì ngược lại.

– Tai cao là biểu hiện của người học rộng, biết nhiều. Những người này từ nhỏ đã được gia đình giáo dục rất chu đáo cẩn thận, cộng thêm phần được nhiều quý nhân trợ giúp nên con đường công danh sự nghiệp của họ rạng từ rất sớm. Tất cả thành quả thu được đểu xứng đáng với công sức họ bỏ ra, điều họ có được là điều mà nhiều người mơ ước và phải phần đấu cố gắng nỗ lực trong thời gian dài mới có thể đạt được.

– Người sở hữu đôi tai thấp thường ít hiểu biết, đường học cũng không mấy sáng sủa, không có quý nhân phù trợ, thiếu lý tưởng, lười phấn đấu, thích an phận. Với họ mà nói thì chỉ cần một công việc đủ để đáp ứng các nhu cầu cơm ăn áo mặc hằng ngày là được.

– Tai to: Kích thước của đôi tai được xem là tấm gương phản chiếu rõ nhất về khí phách của một con người. Người tai càng to khí phách càng lớn, có tương lai trở thành những nhà lãnh đạo tài bao. Rất giỏi trong việc quản lý, sáng tạo, tư tưởng tiển bộ, luôn tìm kiếm nhứng cái mới không đi theo lối mòn. Khéo léo trong giao tiếp giúp họ dễ dàng có được những mối quan hệ tốt đẹp, vì vậy cuộc sống khá hạnh phúc, không phải lo lắng về vấn đề tiền bạc.

– Tai nhỏ: Khí phách cũng nhỏ, tầm nhìn của họ khá hạn hẹp, tâm địa hẹp hòi, tuy nhiên nội tâm khá tốt, không mưu mô thâm độc. Những người có tai nhỏ thích hợp để trở thành những học gia, ẩn mình trong những không gian riêng, tìm tòi, nghiên cứu về những vấn đề mà bản thân cảm thấy thích thú. Xu hướng, hướng nội nên họ có rất ít bạn bè.

– Xem tướng tai nhỏ: Ngược lại, những người có đôi tai nhỏ lại thường không có khí phách, tầm nhìn nhỏ hẹp tâm địa hẹp hòi, ít mưu mô, không có dã tâm. Những người này rất thích hợp trở thành học gia, luôn ẩn mình trong không gian riêng, nghiên cứu những vấn đề bản thân cảm thấy có hứng thú. Chính vì tính cách này nên họ có rất ít các mối quan hệ xã hội, ghét bị người lạ làm phiền, không thích những thứ mới lạ. Xu hướng của họ là thu minh lại trong chiếc vỏ ốc của chính mình để tận hưởng niềm vui cô độc.

– Đôi tai mà có đường nét rõ ràng là người thông minh, năng động có khẳ năng phán đoán cũng như xử lý tốt mọi tình huống xảy ra, không hành động theo cảm tính.

Đường nét trên tai mà mời nhạt cho thấy chủ nhân là người chậm chạp, làm việc một cách lề mề, không có sự đồng nhất giữa lý trí và cảm xúc nên không được mọi người tín nhiệm. Ưu điểm của họ là sự chân thành, và tính nhẫn nại kiên trì trong công việc.

– Vành tai mà áp sát vào đâu là người thành thật, dễ bằng lòng với những gì mình có. Nhược điểm là bảo thủ, không có chí vươn lên, khả năng ứng biến trong các trường hợp còn chậm chạp.

– Vành tai hướng ra ngoài là người ngỗ nghịch, thích tự do bay nhảy, không muốn bị kìm kẹp trong khuôn khổ mà luôn tìm cách thoát ra khỏi những gì đã cũ để tạo nên cái mới. Đôi khi, sự sáng tạo của họ hơi quá đà khiến cho mọi người khó chấp nhận

Xem dái tai – biểu thị của phúc lộc đời người

– Tai người nào mà không có dái tai cho thấy họ không được hưởng phần phúc lộc, mọi việc đều phụ thuộc vào sự cố gắng và phấn đấu của bản thân. Hiếm khi gặp may mắn, và khá cố chấp trong việc tiếp thu ý kiến của người khác do đó sẽ phải chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống. Muốn có cuộc sống êm ấm và no đủ về sau, cần phải học cách tiết kiệm và quản lý chi tiêu thật tốt.

– Dái tai dày dặn là người có nhiều phúc lộc, tính tình trung hậu, thành thật, biết lắng nghe và tiếp nhận những lời góp ý của mọi người xung quanh để hoàn thiện bản thân. Trong công việc và cuộc sống họ cũng nhận được nhiều sự trợi giúp, vì thế mà công việc suôn sẻ hơn, ít gặp phiền toái. Cuộc sống không cần quan tâm quá nhiều đến vấn đề tiền bạc, hậu vận được an nhàn.